|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Xuất khẩu sắn sẽ đạt 2 tỷ USD vào năm 2030

05:00 | 02/05/2024
Chia sẻ
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa phê duyệt Đề án "Phát triển bền vững ngành hàng sắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050".

Theo đó, phát triển ngành hàng sắn ổn định, hiệu quả, bền vững; xây dựng liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo ra giá trị kinh tế cao, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống dân cư khu vực nông thôn; nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu và bảo vệ môi trường.

Thu hoạch sắn tại xã Long Vĩnh, huyện biên giới Châu Thành. Ảnh: Lê Đức Hoảnh - TTXVN

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt mục tiêu đặt ra đến năm 2030, sản lượng sắn tươi cả nước đạt khoảng 11,5-12,5 triệu tấn; trong đó, sản lượng sắn tươi dùng để chế biến sâu một số sản phẩm (tinh bột, etanol, mỳ chính,...) chiếm khoảng 85%. Diện tích trồng sắn sử dụng giống đúng tiêu chuẩn chất lượng đạt 40-50%. Diện tích trồng sắn áp dụng quy trình canh tác bền vững đạt 50%. Kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn đạt từ 1,8 - 2 tỷ USD.

Đến năm 2050, ngành hàng sắn của Việt Nam tiếp tục phát triển bền vững, 70-80% diện tích trồng sắn áp dụng quy trình canh tác bền vững, sản lượng sắn tươi dùng để chế biến sâu một số sản phẩm (tinh bột, etanol, mỳ chính,...) chiếm trên 90%, kim ngạch xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn đạt khoảng 2,3 - 2,5 tỷ USD.

Cả nước có 5 vùng trọng điểm phát triển sắn. Định hướng phát triển đến năm 2030, vùng Trung du miền núi phía Bắc đạt từ 100.000 – 105.000 ha, sản lượng củ tươi đạt từ 1,8 – 2 triệu tấn; vùng Bắc Trung Bộ đạt từ 50.000 - 55.000 ha, sản lượng củ tươi đạt từ 1,1 - 1,2 triệu tấn; vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đạt từ 85.000 – 90.000 ha, sản lượng củ tươi đạt từ 2,1-2,3 triệu tấn; vùng Tây Nguyên đạt từ 150.000 – 160.000 ha, sản lượng củ tươi đạt từ 3,5 -  3,7 triệu tấn; vùng Đông Nam Bộ đạt từ 90.000 – 95.000 ha, sản lượng củ tươi đạt từ 3,1 - 3,3 triệu tấn.

Phát triển chế biến sắn, ngành khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp nhà máy chế biến các sản phẩm từ sắn (tinh bột, etanol, mỳ chính...). Đồng thời, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp chế biến bánh kẹo,vnha đường gluco, mỳ ăn liền, thức ăn chăn nuôi,...sử dụng sắn và tinh bột sắn làm nguyên liệu. Ưu tiên sử dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến trong chế biến sắn để nâng cao chất lượng, sử dụng tối đa sản phẩm phụ, bảo vệ môi trường.

Đề án cũng đưa ra các giải pháp về tổ chức sản xuất, khoa học công nghệ, thị trường tiêu thụ, quản lý nhà nước, đầu tư tăng cường năng lực và hợp tác quốc tế. Trong số đó, khoa học công nghệ ưu tiên các nhiệm vụ: thu thập, trao đổi, lưu giữ nguồn gen các giống sắn phục vụ chọn tạo giống; nghiên cứu chọn tạo, nhập nội các giống sắn mới có năng suất cao, hàm lượng tinh bột cao, có khả năng chống chịu với sinh vật gây hại như: khảm lá sắn, chổi rồng, thối củ...

Cùng với đó là nhân rộng và hoàn thiện hệ thống nhân giống sắn theo 3 cấp (giống gốc/giống đầu dòng, giống cấp 1, giống cấp 2), tập trung giống sạch bệnh, giống mới có năng suất, chất lượng cao tại các địa phương để từng bước nâng cao tỷ lệ sử dụng giống sắn đúng tiêu chuẩn chất lượng. Nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện và chuyển giao vào thực tiễn các quy trình kỹ thuật sản xuất sắn theo hướng bền vững tại các vùng sinh thái; đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hoá các khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch, vận chuyển sắn... Nghiên cứu, chế tạo hoặc nhập khẩu công nghệ mới trong chế biến, đa dạng hoá các sản phẩm từ sắn.

Đồng thời, thực hiện đồng bộ các giải pháp khoa học công nghệ trong chế biến các sản phẩm từ sắn để nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường.

 

Bích Hồng