Những phi vụ chuyển giá 'kinh điển' ở Việt Nam
Chống chuyển giá: gian nan vì thiếu cơ sở dữ liệu |
Tỷ lệ này đã giảm rất nhiều so với tỷ lệ bình quân 50% doanh nghiệp báo lỗ vài năm trước đây. Tuy nhiên, tình trạng chuyển giá của các doanh nghiệp FDI vẫn là vấn đề khiến các cơ quan thuế phải đau đầu.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, Giảng viên Đại học Fulbright cho hay, tình trạng kê khai lỗ không cá biệt trong bất kỳ ngành nghề nào nhưng thường phổ biến ở các ngành nghề như chế biến chế tạo, sản xuất hàng may mặc, da giầy, sản xuất các mặt hàng gia dụng, bán lẻ, nước giải khát,…
Tại TP.HCM, theo thông tin của Cục thuế, các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực siêu thị, bán lẻ, nước giải khát đứng đầu danh sách các doanh nghiệp luôn báo lỗ.
Một số báo cáo khác cho thấy có đến 90% số doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực may mặc ở TP.HCM có báo cáo tài chính lỗ trong khi hầu hết các doanh nghiệp nội địa hoạt động trong cùng ngành lại có lãi.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng điều này thật mâu thuẫn khi nhìn chung các doanh nghiệp nội địa thường được đánh giá có năng lực và lợi thế cạnh tranh thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI cùng ngành.
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, Giảng viên ĐH Fulbright. |
Đáng chú ý là mặc dù lỗ, thậm chí lỗ lũy kế đến mức âm vốn nhưng các doanh nghiệp vẫn tiếp tục mở rộng quy mô kinh doanh thay vì đã phải phá sản hay đóng cửa sản xuất. Dưới đây là các phi vụ chuyển giá điển hình của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam:
Tình huống Coca-Cola Việt Nam và Pepsi Việt Nam
Một số tình huống kê khai lỗ điển hình ở Việt Nam thời gian qua được sự chú ý của dư luận trong lĩnh vực nước giải khát là Coca-Cola và Pepsi.
Với Coca-Cola, theo Cục thuế TP.HCM, từ khi bắt đầu hoạt động ở Việt Nam năm 1992, công ty này liên tục báo lỗ cho đến cuối năm 2012.
Việc thua lỗ của Coca-Cola Việt Nam không phải do tăng trưởng doanh số yếu, thực tế sản lượng của công ty vẫn tăng trưởng trên 25% mỗi năm.
Đến thời điểm tháng 12/2012, tổng số lỗ lũy kế của Coca-Cola Việt Nam lên đến 3.768 tỉ đồng, vượt quá số vốn đầu tư ban đầu 2.950 tỉ đồng.
Như vậy, về mặt kỹ thuậ, lẽ ra Coca-Cola Việt Nam đã phải phá sản. Tuy nhiên, thay vì đóng cửa hay thu hẹp quy mô hoạt động, năm 2014 Coca-Cola tiếp tục đầu tư thêm 210 triệu USD để mở rộng kinh doanh ở Việt Nam.
Điều này đặt ra cho các cơ quan thuế Việt Nam về nghi án chuyển giá của công ty này. Tuy nhiên, bằng chứng để chứng minh Coca-Cola Việt Nam chuyển giá là rất yếu.
Sau nhiều nỗ lực đấu tranh của phía Việt Nam, đến năm 2013 Coca-Cola Việt Nam đã bắt đầu báo lãi và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Chính phủ Việt Nam.
Một ảnh chế được cộng đồng mạng Việt Nam lan truyền khi vụ việc Cocacola lách thuế bị phanh phui. |
Trường hợp Pepsi Việt Nam cũng tương tự như Coca-Cola Việt Nam. Vào Việt Nam sớm hơn Coca-Cola (năm 1991) nhưng trong suốt gần 20 năm hoạt động, Pepsi Việt Nam cũng liên tục kê khai lỗ và không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tuy nhiên, do mức tăng trưởng tiềm năng quá lớn của thị trường nước giải khát Việt Nam, Pepsi Việt Nam vẫn tiếp tục đầu tư thêm nhiều nhà máy mới ở các tỉnh/thành khác trong cả nước để mở rộng thị phần.
Việc tìm các bằng chứng chứng minh Pepsi Việt Nam chuyển giá cũng khó khăn không kém so với Coca-Cola Việt Nam.
Tình huống Adidas
Ngoài lĩnh vực nước giải khát, lĩnh vực phân phối cũng đối diện với nghi án chuyển giá. Một trong những trường hợp điển hình có thể kể đến là Adidas.
Adidas AG là một công ty đa quốc gia được thành lập vào năm 1948 tại Đức, hoạt động trong lĩnh vực thiết kế và sản xuất dụng cụ thể thao.
Các sản phẩm của Adidas đã đến Việt Nam rất sớm từ năm 1993 và đến năm 2009 thì một công ty con của Adidas mới được thành lập ở Việt Nam.
Từ cuối năm 2012, báo chí Việt Nam đã đăng một số bài báo nghi vấn về việc Adidas Việt Nam chuyển giá.
Nhiều lập luận cho rằng Adidas Việt Nam đăng ký hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trong vai trò là nhà phân phối bán buôn nhưng thực tế lại phát sinh chi phí của nhà bán lẻ, và đặt nghi vấn đây chính là cách mà Adidas dùng để chuyển giá theo phương thức liên kết giữa công ty mẹ và các công ty con thuộc tập đoàn Adidas nhằm né thuế thu nhập tại Việt Nam.
Cụ thể, theo lãnh đạo của Cục thuế TP.HCM, Adidas Việt Nam hoạt động theo giấy phép đăng ký kinh doanh là quyền phân phối bán buôn, nhưng danh mục chi phí của doanh nghiệp này lại xuất hiện nhiều chi phí của một doanh nghiệp bán lẻ, như chi phí hỗ trợ vật dụng cho nhà bán lẻ, tiền tiếp thị quốc tế, phí quản lý vùng, tiền hoa hồng mua hàng và đặc biệt, Adidas Việt Nam không phải là nhà sản xuất, nhưng phát sinh khoản tiền bản quyền.
Thực tế, Adidas Việt Nam thanh toán cho Công ty Adidas AG phí bản quyền 6%, chi phí tiếp thị quốc tế 4% doanh thu ròng đối với các sản phẩm được tiêu thụ và cả giá trị sản phẩm được cấp phép.
Ngoài ra, Adidas Việt Nam cũng phải trả chi phí hoa hồng mua hàng cho Addias International Trading B.V, với tỷ lệ 8,25% giá trị mỗi giao dịch.
Bên cạnh đó, theo hợp đồng dịch vụ Đông Nam Á giữa Adidas Singapore và Adidas Việt Nam, Adidas Singapore và các công ty con địa phương, trong đó có Adidas Việt Nam cung cấp một dịch vụ và thỏa thuận việc thu các khoản phí liên quan.
Chính ví phát sinh quá nhiều chi phí trung gian đầu vào đã khiến cho giá thành nhập khẩu các sản phẩm Adidas tại thị trường Việt Nam bị đội lên một cách vô lý, làm cho Adidas Việt Nam luôn rơi vào tình trạng thua lỗ và không phải nộp thuế thu nhập.
Tình huống Metro Việt Nam
Metro Việt Nam bắt đầu kinh doanh ở Việt Nam từ đầu năm 2002 với số vốn ban đầu là 120 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 36 triệu USD.
Sau khoảng 12 năm hoạt động, 2002-2013, Metro Việt Nam đã 6 lần thay đổi giấy phép kinh doanh, nâng tổng vốn đầu tư tại Metro Việt Nam lên hơn 301 triệu USD vào tháng 5/2013.
Điều đáng lưu ý là trong giai đoạn này, Metro Việt Nam liên tục kê khai lỗ với số lỗ lũy kế lên đến 1.657 tỉ USD và chỉ duy nhất năm 2010 là có lãi 173 tỉ đồng.
Mặc dù lỗ nhưng Metro Việt Nam vẫn tiếp tục mở thêm 19 điểm bán lẻ trên toàn quốc. Từ kết quả này, cơ quan thanh tra thuế đã vào cuộc và xác định có hành vi chuyển giá, qua đó yêu cầu Metro Việt Nam điều chỉnh giảm lỗ, giảm khấu trừ và truy thu thuế với số tiền lên đến hơn 500 tỉ đồng, đồng thời xác định Metro Việt Nam đã có lãi trong 2 năm 2010 và 2011 với số tiền 234,8 tỉ đồng.
Trong số này, khoản điều chỉnh giảm lỗ lớn nhất liên quan đến phí nhượng quyền thương mại, các khoản chi phí không liên quan đến hoạt động kinh doanh của Metro Việt Nam, chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn kho, chi phí trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi, … với số tiền lên đến 335 tỉ đồng.
Khoản điều chỉnh thuế nhà thầu đối với các khoản chi phí bồi hoàn tiền lương trả cho Metro Cash & Carry Đức để trả cho các nhân viên nước ngoài làm việc tại Metro Việt Nam khoảng 62 tỉ đồng; điều chỉnh giảm thuế GTGT đầu vào đối với khoản tiền thu hỗ trợ quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại từ các nhà cung cấp lên đến 110 tỉ đồng.
Do những khoản chi phí quá lớn và bất hợp lý được hạch toán vào chi phí của Metro Việt Nam, trong đó đáng kể nhất là chi phí nhượng quyền thương mại, đã khiến cho công ty này liên tục báo lỗ trong hàng chục năm.
Theo số liệu của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2002 - 2013, chi phí nhượng quyền thương mại mà Metro Việt Nam phải trả cho công ty mẹ ở Đức đã lên tới 731 tỉ đồng.
Bên cạnh đó, chi phí lương, thưởng và phụ cấp cho ban giám đốc và chuyên gia nước ngoài trả cho các cá nhân thông qua Metro Cash & Cary GmbH (MCC) tại Đức cũng là một con số rất lớn, lên tới 699 tỉ đồng.
Theo Tổng cục Thuế, đây là những giao dịch liên kết mánh lới để Metro Việt Nam chuyển giá.
Tình huống Keangnam
Công ty Keangnam Vina là một công ty bất động sản 100% vốn của Hàn Quốc. Vào Việt Nam từ tháng 7/2007, Keangnam Vina ký hợp đồng chìa khóa trao tay với Công ty Keangnam Enterprise – một công ty con thuộc tập đoàn Keangnam Hàn Quốc, làm tổng thầu EPC.
Tổng giá trị của hợp đồng lên đến 871 triệu USD. Vai trò của Keangnam Enterprise không chỉ khảo sát, thiết kế, cung cấp thiết bị máy móc, thi công xây dựng dự án mà còn cung cấp cả dịch vụ tư vấn tài chính, dàn xếp vốn vay cho Keangnam Vina.
Năm 2008, khoản phí tư vấn tài chính mà Keangnam Vina trả cho Keangnam Enterprise lên tới 30 triệu USD, phí dịch vụ sắp xếp nguồn vay lên tới 20 triệu USD, chi phí tư vấn quảng cáo, tư vấn cấp quyền sử dụng đất, cấp giấy phép đầu tư cũng lên đến vài triệu USD.
Do những khoản chi phí đó, Keangnam Vina liên tục báo lỗ và do vậy không nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Khoản lỗ này tất nhiên chuyển thành khoản lãi của Keangnam Enterprise ở Hàn Quốc. Trong khi đó, Keangnam Enterprise chỉ phải nộp thuế nhà thầu cho Việt Nam với mức thuế suất thấp hơn nhiều so với thuế thu nhập doanh nghiệp Việt Nam.
Tình hình hoạt động của Keangnam Vina sau 5 năm cho thấy công ty này luôn khai báo lỗ. Theo số liệu của cơ quan thuế, tính đến thời điểm 2011 khi tòa nhà Keangnam Hanoi Landmark bắt đầu vận hành, doanh thu của công ty đạt trên 5.200 tỉ đồng nhưng công ty lại khai báo lỗ lên đến 140 tỉ đồng.
Từ thực trạng này, cơ quan thuế Việt Nam đã vào cuộc thanh tra và xác định hành vi chuyển giá của Keangnam Vina.
Sau thanh tra, cơ quan thuế đã yêu cầu loại trừ tất cả những khoản chi phí đầu vào bất hợp lý. Rất nhiều khoản giá vốn xây dựng bị dàn xếp bất hợp lý đã bị buộc phải điều chỉnh lại. Vì vậy, tổng giá trị hợp đồng EPC từ mức 871 triệu USD đã giảm chỉ còn 699 triệu USD.
Kết quả thanh tra buộc Keangnam Vina phải thừa nhận hành vi chuyển giá và phải điều chỉnh giá lên đến 1.220 tỉ đồng. Không những vậy, Keangnam Vina còn bị truy thu thuế thu nhập doanh nghiệp lên đến 95,2 tỉ đồng do điều chỉnh lại lợi nhuận của giai đoạn 2007-2011.
Tình huống các công ty chè ở Lâm Đồng
Không chỉ có các tập đoàn quốc tế lớn mới có hành vi chuyển giá, ngay cả các doanh nghiệp nước ngoài quy mô nhỏ hơn nhiều cũng chuyển giá.
Một trong những tình huống điển hình này là các công ty chế biến xuất khẩu chè ở Lâm Đồng, đơn cử trong số đó là Công ty Chế biến trà Ô Long Jun Chow của Đài Loan.
Công ty này đầu tư vào Việt Nam năm 2006 với số vốn chỉ 6,344 tỉ đồng. Sau 4 năm hoạt động, tổng số lỗ lũy kế của công ty lên đến 23,903 tỉ đồng, tức gấp 3,7 lần vốn đầu tư.
Tương tự như Công ty Jun Chow, Công ty Trà Đài Loan có số vốn đầu tư đăng ký là 10,427 tỉ đồng nhưng đến năm 2009, số lỗ lũy kế đã lên đến 17,7 tỉ đồng.
Công ty Trà Kinh Lộ cũng có vốn ban đầu 26,9 tỉ đồng, sau 4 năm hoạt động, lỗ lũy kế đã lên đến hơn 56,8 tỉ đồng. Công ty King Wan Chen, vốn đầu tư là 29 tỉ đồng nhưng kết quả cũng thua lỗ hơn 38,3 tỷ đồng.
Điều cần lưu ý rằng đây không phải là thực trạng chung của ngành chè bởi cũng bối cảnh đó, các doanh nghiệp chè Việt Nam, cả DNNN lẫn DN tư nhân đều có lãi và nộp ngân sách nhà nước.
Để bù vốn do bị thua lỗ, các doanh nghiệp FDI thường được các công ty mẹ ở nước ngoài cho vay hỗ trợ. Công ty Trà Đài Loan được vay từ công ty mẹ lên đến 28 tỉ đồng bù cho khoản lỗ 17 tỉ đồng; Công ty Trà Kinh Lộ được vay hơn 27 tỉ đồng bù cho khoản lỗ hơn 26 tỉ đồng; Công ty King Wan Chen vay hơn 12 tỉ đồng từ công ty mẹ bù cho khoảng lỗ 38,3 tỉ đồng.
Đương nhiên các khoản vay vốn này sẽ phải trả lãi và thường lãi suất lại rất cao và do vậy lại tránh được các khoản thuế thu nhập mới.
Từ thực trạng trên, cơ quan thuế của tỉnh Lâm Đồng đã tiến hành thanh tra và phát hiện giá xuất khẩu của các DN FDI này luôn thấp hơn rất nhiều so với giá thành sản xuất sản phẩm.
Cụ thể, sau khi chế biến chè thành phẩm, các doanh nghiệp đóng gói xuất khẩu sang thị trường nước ngoài (nơi có công ty mẹ) với giá rất thấp chỉ từ 2,8 đến 4 USD/ kg, trong khi chi phí sản xuất một kg trà thành phẩm đã lên đến 8 đến 9 USD/kg.
Sau khi chuyển về công ty mẹ, sản phẩm trà được phân nhỏ rồi mới gắn nhãn mác và bán với giá cao hơn rất nhiều.
Các DN FDI chè ở Lâm Đồng đã thừa nhận giá xuất khẩu thực tế là từ 5,5 đến 11,6 USD/kg, cao gấp nhiều lần số liệu mà báo cáo với cơ quan chức năng địa phương.
Qua kiểm tra, cơ quan thuế Lâm Đồng đã hướng dẫn 17 DN FDI xử lý hết số lỗ lũy kế trong hạn chuyển lỗ đến hết cuối năm 2009 hơn 316,5 tỉ đồng, trong đó, Công ty TNHH HaiYih xử lý lỗ lũy kế với số tiền là 63,6 tỉ đồng, Công ty Trà Kinh Lộ 56,8 tỉ đồng, Công ty TFB Việt Nam 47,9 tỉ đồng... Các doanh nghiệp này cũng đã kê khai và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với số tiền gần 8 tỉ đồng.
Ngoài những tình huống điển hình trên đây, còn rất nhiều tình huống chuyển giá khác đã được cơ quan thuế Việt Nam thanh tra và làm rõ được hành vi chuyển giá. Tuy nhiên cũng có rất nhiều trường hợp chưa phát hiện, hoặc hiện đã có nghi vấn nhưng việc thanh tra và kết luận vẫn còn rất nhiều khó khăn và thách thức.