Nhiều doanh nghiệp, hiệp hội đề xuất giữ nguyên phương án tính lương để đóng BHXH
Theo khảo sát nhanh của Ban Nghiên cứu phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV), phần lớn đại diện doanh nghiệp, Hiệp hội đều đánh giá cao ý nghĩa, tính ưu việt và nhân văn trong nhiều quy định cụ thể của Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) sửa đổi tuy nhiên, về cách tính lương để đóng bảo hiểm xã hội, doanh nghiệp đề nghị giữ nguyên cách tính hiện hành.
Theo các doanh nghiệp, hiệp hội, những thay đổi về mở rộng đối tượng tham gia, bổ sung chế độ thai sản vào BHXH tự nguyện, giảm điều kiện số năm đóng tối thiểu để hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm… được doanh nghiệp cho rằng phù hợp với chủ trương chung về cải cách chính sách BHXH.
Tuy nhiên, liên quan tới căn cứ tính đóng BHXH bắt buộc được quy định tại Khoản 1 Điều 37 dự thảo luật, theo ý kiến của các doanh nghiệp, Hiệp hội, đây là nội dung có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ ở bài toán an sinh cho xã hội, người lao động, mà còn là bài toán năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.
Cụ thể, Dự thảo Luật đang cân nhắc hai phương án xác định tiền lương làm căn cứ tính đóng BHXH:
Phương án 1 (giữ nguyên như quy định hiện hành) - “là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác xác định được mức tiền cụ thể cùng với mức lương thỏa thuận trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động”;
Phương án 2 “là tiền lương tháng bao gồm mức lương và phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động; không bao gồm tiền thưởng, các khoản hỗ trợ và trợ cấp khác không liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động”.
Trong trường hợp dự Luật giữ nguyên quy định theo như phương án 1, doanh nghiệp và người lao động sẽ không phải chịu áp lực về chi phí “gia tăng đột biến”. Nhưng cơ quan quản lý nhà nước thì phải tìm được phương án, giải pháp nhằm giải quyết bài toán “chậm đóng, trốn đóng, nợ BHXH...” của một số nhóm doanh nghiệp và người lao động như nhận diện thời gian qua.
Chuyên gia quốc tế về lao động cho rằng, trường hợp này ban soạn thảo nên cân nhắc để đề xuất gia tăng các hình thức thanh kiểm tra, quản trị dựa trên dữ liệu, liên kết dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về đân cư với cơ sở dữ liệu thuế, BHXH; kết hợp chế tài nghiêm minh,... thì hạn chế nêu trên sẽ dần được khắc phục mà vẫn tạo được thuận lợi cho doanh nghiệp và người lao động.
Theo thống kê của BHXH Việt Nam, đến hết năm 2022, cả nước có hơn 2,13 triệu lao động bị doanh nghiệp chậm đóng BHXH từ một đến ba tháng, 440.800 người bị nợ đóng từ 3 tháng trở lên và gần 213.400 người bị "treo" sổ tại các doanh nghiệp đã giải thể, ngừng hoạt động.
Số lao động đang bị nợ BHXH chiếm 17,4% tổng số lao động tham gia BHXH bắt buộc.
Tránh chi phí gia tăng đột biến cho doanh nghiệp
Với phương án 2, căn cứ tính đóng BHXH sẽ tăng lên gây ra hai vấn đề: Việc điều chỉnh tăng căn cứ tính đóng BHXH có thể khiến tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH trở nên trầm trọng hơn và làm gia tăng chi phí lao động của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh chi phí này đã được cho là “cao nhất khối ASEAN”, sẽ ảnh hưởng trực tiếp năng lực cạnh tranh của DN và năng lực cạnh tranh quốc gia và có thể gây “hiệu quả ngược” đối với các mục tiêu thu hút đầu tư FDI, đầu tư tư nhân đang được đẩy mạnh hiện nay.
Năng suất lao động của Việt Nam trong các đánh giá của quốc tế chỉ ra đều thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực, chỉ cao hơn Lào, Myanmar và Campuchia.
Chuyên gia quốc tế và trong nước cho rằng, lợi thế lao động giá rẻ của Việt Nam đã giảm dần, thậm chí ở nhiều ngành không còn hiện hữu so với nhiều quốc gia trong khu vực do tốc độ tăng chi phí lao động nhanh hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
Theo Báo cáo của Tổng Cục thống kê, giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng năng suất lao động trung bình hàng năm chỉ đạt 5,29% trong khi tốc độ tăng lương phân theo các khu vực hay ngành trong giai đoạn 2011-2020 đều trên 7%.
Giai đoạn 2011-2020, mức lương cơ sở tăng gấp 3 lần; mức lương tối thiểu theo vùng tăng từ 3,27 (Vùng I, II, III) lần đến 3,7 lần (Vùng IV) trong khi năng suất lao động chỉ tăng hơn 2 lần.
Thêm vào đó, doanh nghiệp còn phải chịu chi phí đào tạo do trình độ lao động còn nhiều hạn chế. Việc tăng căn cứ tính đóng BHXH do đó, sẽ tiếp tục làm tăng chi phí lao động, dẫn đến khoảng cách giữa tốc độ tăng chi phí lao động và năng suất lao động ngày càng bất hợp lý, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thu hút đầu tư và năng lực cạnh tranh của quốc gia cũng như của doanh nghiệp nhất là những ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày, điện tử,…
Bên cạnh đó, ở thời điểm hiện tại việc tăng căn cứ tính đóng BHXH cũng chưa phù hợp khi hầu hết doanh nghiệp đang gặp khó khăn phục hồi hậu COVID-19 và tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu.
Trên cơ sở tổng hợp các ý kiến, phân tích và nhận định nêu trên, các Hiệp hội, doanh nghiệp đề xuất giữ nguyên quy định hiện hành về căn cứ tính đóng BHXH (phương án 1 của dự thảo luật), kết hợp với xác lập các biện pháp quản lý hiệu quả khác nhằm đảm bảo các mục tiêu toàn diện của chính sách BHXH cũng như chính sách phát triển kinh tế và doanh nghiệp.
Ban soạn thảo dự Luật cũng cần nghiên cứu, thể hiện rõ ràng (một cách tối đa) các quy định liên quan tới các khoản phụ cấp, khoản bổ sung phải tính đóng BHXH để tránh tình trạng sau này dự Luật đi vào đời sống, cơ quan quản lý nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động có những cách hiểu khác nhau khiến việc chấp hành pháp luật về BHXH bị ảnh hưởng tiêu cực.
Thu nhập đóng BHXH luôn ở mức thấp nhất
Trước đó, khi trình dự thảo Luật BHXH (sửa đổi), Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, theo phản ánh của các địa phương, mặc dù Luật Bảo hiểm xã hội 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật đã hướng dẫn chi tiết mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH nhưng ở một số doanh nghiệp vẫn tồn tại ba loại thu nhập.
Thu nhập này bao gồm: Thu nhập để làm căn cứ đóng BHXH; thu nhập để doanh nghiệp thực hiện quyết toán và thu nhập thực tế chi trả cho người lao động.
Đáng chú ý là thu nhập để làm căn cứ đóng BHXH luôn ở mức thấp nhất (bằng mức lương tối thiểu vùng, cộng 7% đối với lao động đã qua đào tạo nghề và cộng thêm 3% hoặc 7% đối với lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm).
Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mức hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt là mức hưởng lương hưu khi về già.