Mùa báo cáo kết quả kinh doanh sắp bắt đầu, nhưng diễn biến COVID-19 mới là nhà đầu tư Mỹ quan tâm nhất
Theo CNBC, các ngân hàng lớn và công ty chăm sóc sức khỏe sẽ là những doanh nghiệp đầu tiên tiết lộ ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến lợi nhuận, triển vọng, lực lượng nhân sự và khách hàng của họ.
Mùa báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Mỹ bắt đầu từ tuần sau. Các ông lớn như JPMorgan, Wells Fargo và Johnson & Johnson thuộc nhóm những công ty đầu tiên công bố báo cáo kinh doanh quí vào ngày 14/4.
Đến thời điểm này, dường như thị trường chứng khoán sẽ sẵn sàng bỏ qua những tin tức xấu – vốn đã được dự đoán từ trước.
Ông Art Hogan, Giám đốc đầu tư tại National Securities nói: "Phần lớn sự suy giảm hoạt động kinh doanh xảy ra trong tháng 3. Liệu chúng tôi có phản ứng với những dữ liệu kinh tế cực kì tiêu cực không ư? Chúng tôi sẽ phản ứng với bất kì thông tin nào có thể đem lại chút dự báo cho tương lai".
"Với tình hình hiện tại, không ai biết được sự suy giảm trong hoạt động kinh tế sẽ còn tiếp tục kéo dài đến bao giờ. Đa số các công ty sẽ rút lại dự báo kết quả kinh doanh cho năm 2020. Tôi nghĩ rằng sẽ có nhiều công ty rút lại dự báo hơn là những công ty không làm vậy".
Thị trường chứng khoán Mỹ vừa có một tuần đi lên mạnh mẽ hiếm thấy trong lịch sử. Tính chung trong cả tuần, chỉ số S&P 500 tăng 12,1%; đánh dấu tuần tích cực nhất kể từ năm 1974. Các nhà đầu tư phản ứng tích cực trước những dấu hiệu cho thấy rằng số ca nhiễm COVID-19 tại những "điểm nóng" ở Mỹ và châu Âu có thể đang tiến gần tới đỉnh.
Thông báo của Fed về gói kích thích kinh tế 2.300 tỉ USD cũng đem lại cú hích cho thị trường.
Dữ liệu kinh tế đứng sau thông tin dịch bệnh
Trọng tâm của thị trường chứng khoán trong tuần tới sẽ là các báo cáo kết quả kinh doanh được công bố, nhưng nhà đầu tư cũng sẽ chú ý tới những báo cáo kinh tế quan trọng khác, ví dụ như doanh số bán lẻ tháng 3.
Các biện pháp phong tỏa nhằm ngăn chặn sự lây lan của COVID-19 đã dẫn tới việc hàng loạt các cửa hàng bán lẻ phải nhanh chóng đóng cửa, doanh số bán xăng đột ngột giảm, doanh số ô tô lao dốc. Giới phân tích dự đoán nhìn chung, doanh số bán lẻ tháng 3 sẽ giảm 7%.
Ông Hogan, Giám đốc đầu tư tại National Securities cho biết: "Nhà đầu tư chú ý đến tin tức về sự lây lan của virus corona chủng mới hơn là về dữ liệu kinh tế. Trong tuần này, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tiếp tục tăng vọt. Nhưng thông tin này đã được bỏ qua vì nhà đầu tư đang nghe ngóng xem số ca nhiễm COVID-19 mới tại khu vực nào đang chững lại".
"Liệu có đúng là tình hình ở New York đang khá lên, số người nhiễm COVID-19 đã sắp lên đến đỉnh? Tôi có cảm giác rằng nhà đầu tư sẽ nhìn vào báo cáo kinh doanh quí I và nói "Chúng tôi biết rồi, các anh nên rút lại dự báo kinh doanh đi" với doanh nghiệp".
Dữ liệu về số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần cũng sẽ là thông tin quan trọng, trong bối cảnh có tới gần 17 triệu người Mỹ xin được hưởng trợ cấp thất nghiệp chỉ trong vòng ba tuần. Các nhà kinh tế dự đoán chính phủ Mỹ sẽ nhận được thêm hàng triệu đơn xin trợ cấp nữa trong tuần kết thúc ngày 11/4.
Theo CNBC, các ngân hàng lớn công bố báo cáo trong thứ Tư tuần tới bao gồm Citigroup, Bank of America và Goldman Sachs.
Ông Hogan nói rằng các báo cáo từ các ngân hàng lớn như JPMorgan có thể sẽ giúp thị trường biết được các biện pháp của Fed có hiệu quả đến đâu, bao gồm các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ vay tiền, và các chương trình nhằm giúp đỡ thị trường tín dụng.
Ai sẽ ngừng trả cổ tức và hoãn mua cổ phiếu quĩ?
Theo cơ sở dữ liệu I/B/E/S, giới phân tích dự kiến thu nhập của doanh nghiệp Mỹ trong quí I sẽ giảm 13,7%. Các công ty truyền thông được kì vọng sẽ có được kết quả tốt nhất, với lợi nhuận tăng 7,8% trong quí I. Các công ty chăm sóc sức khỏe được dự đoán có mức tăng trưởng lợi nhuận khiêm tốn vào khoảng 1,6%.
Các nhà phân tích cũng đang chờ đợi để xem liệu các công ty có thảo luận về các biện pháp nhằm cắt giảm chi phí không. Bà Quincy Krosby, Giám đốc đầu tư tại Prudential Financial cho biết: "Điều mà chúng tôi lo ngại trong mùa báo cáo kết quả kinh doanh là công ty nào sẽ thông báo cắt giảm cổ tức".
Các chuyên gia chứng khoán tại UBS Global Wealth Management viết trong một lưu ý rằng có tới 51 công ty – chiếm khoảng 27% các công ty mạnh tay mua cổ phiếu quĩ trong năm 2019 – đã tạm hoãn các chương trình mua lại cổ phiếu được lên kế hoạch trước đó.
Trong khi đó, tại Mỹ, hoạt động mua lại cổ phiếu quĩ của doanh nghiệp chiếm tới 70% số tiền mặt được hoàn trả cho cổ đông trong giai đoạn 12 tháng kết thúc vào tháng 6/2019.
Các chuyên gia chứng khoán tại UBS viết: "Do đó, tỉ lệ chi trả cổ tức tại Mỹ có phần thấp hơn các khu vực khác. Vì vậy mặc dù lợi nhuận của các công ty sẽ giảm mạnh trong năm 2020, chúng tôi dự kiến mức cắt giảm cổ tức khiêm tốn vào khoảng 6 - 8%".
"Hiện tại, chúng tôi giả định rằng Fed sẽ không bắt buộc các ngân hàng Mỹ cắt giảm hoặc ngừng chi trả cổ tức. Chúng tôi dự kiến doanh nghiệp trong ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu, năng lượng và bất động sản sẽ có mức cắt giảm cổ tức cao hơn".
"Nhiều khả năng doanh nghiệp trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, hàng tiêu dùng thiết yếu và một số công ty công nghệ sẽ tăng chi trả cổ tức cho cổ đông".
Bà Krosby, Giám đốc đầu tư tại Prudential Financial cho biết trong mùa báo cáo kết quả kinh doanh, nhà đầu tư sẽ đồng thời quan sát xem liệu đến bao giờ nền kinh tế có thể bắt đầu quay trở lại bình thường.
Bà Krosby cho biết: "Thị trường chứng khoán hiện tại đang chuyển động qua từng giai đoạn. Giai đoạn quan trọng nhất chính là virus corona chủng mới". Theo bà, các diễn biến tích cực về tình hình dịch bệnh ở New York sẽ có vai trò quan trọng đối với chứng khoán Mỹ, có thể được biểu hiện thông qua những thông tin như là không có thêm người ca nhiễm mới, hoặc có ít người phải nhập viện hơn.
Dần dần các công ty sẽ có thể nói về việc tiến lên phía trước. Bà Krosby nói: "Liệu các công ty có thấy bất kì dấu hiệu nào cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế không? Hoặc bất cứ thông tin tích cực nào trong giai đoạn suy thoái? Đây là những câu hỏi quan trọng trong mùa báo cáo kết quả kinh doanh".
"Chúng sẽ đi kèm theo với câu hỏi bao giờ nước Mỹ sẽ dỡ bỏ các hạn chế để người lao động có thể đi làm trở lại. Các dữ liệu khảo sát sẽ rất quan trọng khi người Mỹ cảm thấy thoải mái để quay trở lại làm việc, trở lại môi trường bình thường hơn".