Kinh tế châu Á trước thách thức từ việc tăng lãi suất và xung đột tại Ukraine
Hai chuyên gia Krishna Srinivasan và Shanaka Jayanath của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cắt giảm dự báo tăng trưởng với khu vực châu Á-Thái Bình Dương xuống còn 4% trong năm nay và 4,3% trong năm sau, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 5,5% trong hai thập kỷ qua. Mặc dù vậy, châu Á vẫn là một điểm sáng tương đối trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng mờ nhạt.
Theo hai chuyên gia, hiện có ba thách thức đáng kể đối với sự tăng trưởng của khu vực châu Á: Một là, việc thắt chặt các điều kiện tài chính đang làm tăng chi phí đi vay của chính phủ và có khả năng ngày càng thắt chặt hơn, khi các ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế tiên tiến lớn tiếp tục tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát nhanh nhất trong nhiều thập kỷ. Đồng tiền mất giá nhanh chóng có thể làm phức tạp thêm các thách thức chính sách.
Hai là cuộc xung đột Nga-Ukraine vẫn đang tiếp diễn và tiếp tục khiến hoạt động kinh tế ở châu Âu suy giảm mạnh và điều này làm giảm thêm nhu cầu của bên ngoài với các mặt hàng xuất khẩu của châu Á. Ba là, chính sách "Không COVID" (Zero COVID) nghiêm ngặt của Trung Quốc và các đợt phong tỏa liên tiếp đã khiến tăng trưởng kinh tế chậm lại nhanh chóng và điều này làm suy yếu động lực trong các nền kinh tế được kết nối.
Giảm tốc trên diện rộng
Sau khi tăng trưởng gần bằng 0 trong quý hai, Trung Quốc sẽ phục hồi khiêm tốn trong nửa cuối năm để đạt mức tăng trưởng cả năm là 3,2% và tăng tốc lên 4,4% vào năm tới, với giả định các hạn chế về đại dịch sẽ được nới lỏng dần.
Tại Nhật Bản, tăng trưởng được kỳ vọng sẽ không thay đổi ở mức 1,7% trong năm nay và sau đó giảm xuống còn 1,6% vào năm sau, do nhu cầu bên ngoài yếu. Tăng trưởng của Hàn Quốc vào năm 2022 đã được điều chỉnh lên 2,6% do tăng trưởng quý II/2022 mạnh mẽ nhưng cũng được điều chỉnh xuống chỉ còn 2% trong năm 2023. Nền kinh tế Ấn Độ sẽ tiếp tục tăng trưởng, mặc dù chậm hơn so với dự kiến trước đây, với ước tính đạt 6,8% trong năm nay và 6,1% vào năm 2023.
Khu vực Đông Nam Á có khả năng sẽ phục hồi mạnh mẽ. Tại Việt Nam, quốc gia đang được hưởng lợi từ tầm quan trọng ngày càng tăng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, hy vọng tốc độ tăng trưởng sẽ đạt khoảng 7% và điều chỉnh nhẹ trong năm tới. Philippines được dự báo sẽ tăng 6,5% trong năm nay, trong khi mức tăng trưởng sẽ đạt 5% ở Indonesia và Malaysia.
Campuchia và Thái Lan sẽ mở rộng nhanh hơn vào năm 2023 do sự tăng trưởng ngành du lịch khách nước. Tại Myanmar, quốc gia đã trải qua cuộc suy thoái sâu sắc do đảo chính quân sự và đại dịch COVID-19, tăng trưởng năm nay dự kiến sẽ ổn định ở mức thấp.
Triển vọng có nhiều thách thức hơn đối với các thị trường châu Á khác. Sri Lanka vẫn đang trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, mặc dù các nhà chức trách đã đạt được thỏa thuận với IMF về một chương trình giúp ổn định nền kinh tế.
Tại Bangladesh, cuộc xung đột ở Ukraine và giá cả hàng hóa cao đã cản trở sự phục hồi mạnh mẽ từ đại dịch. Các nền kinh tế có nhiều khả năng mắc nợ cao như Maldives, Lào và Papua New Guinea và những nền kinh tế đang đối mặt với rủi ro tái cấp vốn như Mông Cổ cũng đang phải đối mặt với những thách thức to lớn.
Hai chuyên gia của IMF nhận định, tăng trưởng trên khắp các quốc đảo Thái Bình Dương sẽ phục hồi mạnh mẽ trong năm tới lên 4,2% từ 0,8% trong năm nay do các nền kinh tế dựa vào du lịch được hưởng lợi từ việc nới lỏng các hạn chế đi lại.
Lạm phát vẫn gia tăng
Lạm phát hiện vượt quá mục tiêu của các ngân hàng trung ương ở hầu hết các nền kinh tế châu Á, do sự kết hợp giữa giá thực phẩm và năng lượng toàn cầu tăng cao cộng với đồng nội tệ mất giá so với đồng USD. Lạm phát lõi, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng biến động, cũng tăng và cần phải theo dõi chặt chẽ do tác động từ những kỳ vọng lạm phát và tiền lương tăng.
Trong khi đó, đồng USD đã mạnh lên so với hầu hết các loại tiền tệ chính khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất và báo hiệu các đợt tăng tiếp theo sẽ xảy ra. Hầu hết các đồng tiền của các thị trường mới nổi ở châu Á đã mất từ 5% đến 10% giá trị so với đồng USD trong năm nay, trong khi đồng yên mất giá hơn 20%. Những đợt mất giá gần đây đã bắt đầu chuyển sang lạm phát lõi ở toàn toàn khu vực và điều này có thể khiến lạm phát ở mức cao lâu hơn dự kiến trước đây.
Cuối cùng, giá thực phẩm và năng lượng toàn cầu tăng vọt vào đầu năm nay đe dọa làm tăng đột ngột chi phí sinh hoạt trong toàn khu vực, đặc biệt có tác động mạnh đến thu nhập thực tế của các hộ gia đình có thu nhập thấp hơn mà chi tiêu nhiều hơn thu nhập khả dụng của họ cho những mặt hàng này.
Các chính sách cho thời khắc khó khăn
Trong bối cảnh tăng trưởng thấp hơn, các nhà hoạch định chính sách phải đối mặt với những thách thức phức tạp đòi hỏi những phản ứng mạnh mẽ.
Các ngân hàng trung ương sẽ cần kiên trì với việc thắt chặt chính sách của họ cho đến khi lạm phát giảm trở lại mức mục tiêu một cách đáng kể. Tỷ giá hối đoái phải được phép điều chỉnh để phản ánh các nguyên tắc cơ bản, bao gồm các điều khoản thương mại - thước đo giá cả đối với hàng hóa xuất khẩu của một quốc gia so với hàng hóa nhập khẩu của quốc gia đó - và các quyết định về chính sách tiền tệ đối ngoại.
Nhưng nếu các cú sốc toàn cầu dẫn đến tỷ lệ đi vay tăng đột biến không liên quan đến các thay đổi chính sách trong nước hoặc đe dọa sự ổn định tài chính hoặc làm suy yếu khả năng của ngân hàng trung ương trong việc ổn định kỳ vọng lạm phát, thì các biện pháp can thiệp ngoại hối có thể trở thành một phần hữu ích trong một loạt các chính sách đối với các quốc gia có đủ dự trữ cùng với các chính sách bảo mật vĩ mô. Các quốc gia cần khẩn trương xem xét việc cải thiện vùng đệm thanh khoản của mình, bao gồm cả việc yêu cầu truy cập vào các công cụ phòng ngừa từ IMF cho các nước đủ điều kiện.
Nợ công đã tăng đáng kể ở châu Á trong 15 năm qua - đặc biệt là ở các nền kinh tế tiên tiến và Trung Quốc - và còn tăng thêm trong thời kỳ đại dịch COVID-19. Chính sách tài khóa cần tiếp tục củng cố dần dần để điều chỉnh nhu cầu cùng với chính sách tiền tệ, tập trung vào mục tiêu trung hạn là ổn định nợ công.
Theo đó, các biện pháp để bảo vệ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương khỏi chi phí sinh hoạt tăng cao sẽ cần phải xác định đúng mục tiêu và mang tính tạm thời. Ở các quốc gia có mức nợ cao, hỗ trợ sẽ cần phải trung lập về ngân sách để duy trì lộ trình củng cố tài khóa. Các khuôn khổ tài khóa trung hạn đáng tin cậy vẫn là một điều bắt buộc.
Trong ngắn hạn, các chính sách phải tập trung vào việc khắc phục những thiệt hại do đại dịch và chiến tranh gây ra. Những thiệt hại do đại dịch và những thách thức hiện nay có thể sẽ khá lớn ở châu Á, một phần do đòn bẩy cao giữa các công ty sẽ đè nặng lên đầu tư tư nhân và thiệt hại về giáo dục do đóng cửa trường học có thể làm xói mòn nguồn nhân lực nếu các biện pháp khắc phục không được thực hiện ngay hôm nay.
Hợp tác quốc tế mạnh mẽ là cần thiết để ngăn chặn sự phân mảnh kinh tế địa lý lớn hơn và đảm bảo rằng thương mại hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Hiện có nhu cầu cấp thiết về những thay đổi cơ cấu tham vọng để thúc đẩy tiềm năng sản xuất của khu vực và giải quyết cuộc khủng hoảng biến đổi khí hậu.