Doanh nghiệp phân bón tìm đường mở rộng thị phần NPK khi thị trường urê bão hòa
Báo cáo ngành phân bón của Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho biết Việt Nam đã tự chủ được trong việc sản xuất phân urê, phân lân và NPK, trong khi nhập khẩu hoàn toàn phân kali, do Việt Nam không có quặng Potash.
Hiện nay tổng công suất sản xuất các loại phân bón trong nước đều vượt nhu cầu tiêu thụ mỗi năm. Dẫn đầu là NPK, chiếm 35% tổng nhu cầu, do đây là loại phân bón tổng hợp, được đánh giá có tính kinh tế hơn khi chứa đầy đủ 3 hoạt chất cho cây trồng như đạm, phốt pho và kali.
Loại phân quan trọng thứ 2 là urê chiếm 28% tổng nhu cầu cả nước, tiếp đến phân lân 17% và các loại phân bón khác.
Nhìn chung, phân khúc NPK khá phân mảnh với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp do rào cản gia nhập thấp. Nguyên nhân là do các công ty nhỏ lẻ và hộ kinh doanh thường sử dụng công nghệ đơn giản là phối trộn các loại phân đơn đầu vào, trong khi các công ty lớn dùng công nghệ hóa học phức tạp hơn để sản xuất. Chất lượng sản phẩm và giá bán vì thế cũng có sự chênh lệch.
Trong khi đó, thị phần urê cả nước được chiếm lĩnh bởi 2 Tập đoàn là PVN (65%) và Vinachem (gần 30%). Các công ty con thuộc Tập đoàn PVN (DPM, DCM) chi phối thị trường miền Nam và khu vực Tây Nguyên, trong khi nhóm các công ty thuộc Vinachem chiếm lĩnh thị trường phía Bắc.
Phân lân đóng vai trò như một hoạt chất bổ trợ giúp cây tăng sức đề kháng, và phù hợp cho các loại cây trồng trên nền đất chua (tập trung chủ yếu ở vùng đồi núi phía Bắc).
Việt Nam có thể sản xuất được phân lân nhờ có quặng Apatite, tuy nhiên công nghệ sản xuất đơn giản (chủ yếu nhập máy móc thiết bị từ Trung Quốc), nên chất lượng phân nội địa kém hơn các loại phân nhập khẩu. Các công ty sản xuất phân lân có công suất lớn hiện nay như LAS, DDV đều thuộc tập đoàn Vinachem.
Cán cân cung - cầu thế giới cân bằng
Dự báo nguồn cung urê thế giới trong năm 2024 được đảm bảo chủ yếu từ các nước xuất khẩu lớn như Trung Quốc và Nga.
Với nhu cầu nhập khẩu từ các nước lớn giảm trong năm 2024, trong khi nguồn cung từ Trung Quốc và Nga vẫn hiện hữu, Hiệp hội lương thực thế giới (IFA) dự báo giá urê có thể dao động từ 320 - 350 USD/tấn trong năm 2024, không chênh lệch quá nhiều so với mức trung bình 358 USD/tấn trong năm 2023.
Do đó, VDSC kỳ vọng giá urê nội địa trong năm 2024 có thể giảm từ 3% - 5% với cùng kỳ, tương quan với diễn biến giá urê thế giới.
Năm 2024, VDSC dự phóng sản lượng tiêu thụ urê nội địa tương đương 2023, vì giá bán trong nước cao hơn giá thế giới khoảng 5% - 10%, do đó nguồn phân bón nhập khẩu giá rẻ hơn có thể gây áp lực cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Bên cạnh đó, triển vọng xuất khẩu không còn nhiều khi nguồn cung thế giới được đảm bảo, và tổng công suất sản xuất phân bón nội địa đã vượt hoặc gần như tương đương nhu cầu tiêu thụ mỗi năm, khiến thị trường phân bón gần như bão hòa, cơ hội gia tăng sản lượng từ nhu cầu tăng là không lớn.
Phân khúc NPK: Các doanh nghiệp lớn tìm cách gia tăng thị phần
Thị trường NPK nội địa phân tán khi các doanh nghiệp nhỏ và hộ kinh doanh chiếm 52% thị phần, trong khi hai doanh nghiệp có sản lượng lớn nhất nước là BFC và LAS chỉ chiếm lần lượt 15% và 19%.
Tổng công suất thiết kế NPK trong nước gần 4 triệu tấn/năm, hiệu suất hoạt động trung bình ngành qua các năm dao động từ 49% đến 60%, cho thấy hầu hết các công ty sản xuất nội địa đều đang gặp tình trạng dư thừa công suất.
So với mức đỉnh trong tháng 6/2022, NPK có tốc độ giảm giá chậm hơn các loại phân đơn khác, đồng thời duy trì được giá bán ổn định hơn các loại phân đơn, nguyên nhân chính là do tính kinh tế loại phân bón này mang lại. Ước tính urê đầu vào chiếm gần 50% chi phí sản xuất NPK, kali và phân lân chiếm lần lượt 28% và 22%. Do đó, báo cáo VDSC cho hay biên lợi nhuận gộp các doanh nghiệp sản xuất NPK thường biến động ngược chiều với diễn biến giá urê.
VDSC đánh giá những doanh nghiệp gia nhập sau với công nghệ hiện đại hơn và chủ động trong chiến lược kinh doanh sẽ là một nhân tố ảnh hưởng tiêu cực đến thị phần của các công ty có vị thế lâu năm trên thị trường nhưng ít năng động hơn, điển hình là BFC (gia nhập từ 2012).
Công ty không có kế hoạch cải tiến công nghệ sản xuất, cũng như chưa có kế hoạch mở rộng kênh phân phối trong thời gian tới. Mặc dù xu hướng biên lợi nhuận gộp cải thiện trong quý I/2024, đơn vị phân tích này nhận thấy chi phí bán hàng của công ty tăng 39% so với quý trước, trong khi doanh thu giảm 12%.
Trong năm 2024, do mảng urê đã bảo hòa nên hầu hết các doanh nghiệp lớn như DPM và DCM đều muốn gia tăng thị phần tại phân khúc NPK.
Gần đây nhất là thương vụ mua lại nhà máy sản xuất NPK Hàn – Việt (KVF) của DCM, công suất 360.000 tấn/năm, giúp nâng tổng công suất NPK của DCM lên 660.000 tấn/năm.
Tuy nhiên sản lượng tiêu thụ của KVF chỉ duy trì ở mức thấp, 70.000 - 100.000 tấn/năm, và luôn ghi nhận lỗ kể từ khi chính thức đi vào hoạt động từ 2018. Sau khi được mua lại cuối quý I, DCM kỳ vọng nhà máy KVF sẽ bắt đầu có lãi gộp từ quý II, ước tính khoảng 3% - 5%.
Ngoài ra, thâm nhập thị trường từ cuối 2018 nhưng sản lượng tiêu thụ hằng năm của DPM chỉ dao động từ 40% - 50% công suất thiết kế. Phân khúc NPK của DPM mới phục hồi trong quý I với biên lợi nhuận gộp đạt 5%, trong khi ghi nhận lỗ gộp trong 4 quý liền kề trước đó.
Mặc dù có lợi thế về tự chủ nguồn urê đầu vào, VDSC đánh giá việc thâm nhập vào thị trường NPK của các doanh nghiệp lớn như DPM và DCM vẫn cần thời gian và các chiến lược phù hợp.
Dự thảo Luật thuế VAT sửa đổi là một điểm sáng của ngành
Luật Thuế VAT sửa đổi đã được thảo luận tại kỳ họp Quốc Hội thứ 7 (từ 20/05/2024 đến 28/06/2024), và sẽ được biểu quyết để thông qua tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2024). Một trong những điểm sửa đổi lần này là đưa phân bón vào danh mục chịu thuế VAT 5% (từ diện không chịu thuế). VDSC kỳ vọng Luật Thuế VAT sửa đổi sẽ được thông qua, và có hiệu lực từ 1/1/2025.
Hiện tại giá phân bón trong nước cao hơn giá phân bón nhập khẩu một phần là do giá thành cao hơn khi các doanh nghiệp sản xuất phải chịu thêm chi phí VAT 10% (do không được khấu trừ).
Nếu Luật thuế VAT sửa đổi được thông qua, giá thành sản xuất phân bón trong nước có thể giảm, đồng thời giá bán phân bón nhập khẩu sẽ tăng thêm 5% do thuế VAT. Điều này giúp gia tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất phân bón nội địa.