|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Nhà đất

Đề xuất lùi áp dụng giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn thêm 1 năm

15:25 | 01/10/2023
Chia sẻ
Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn tại các ngân hàng chính thức giảm xuống còn 30% kể từ ngày 1/10/2023. Tuy vậy, Hiệp hội Bất động sản Tp. Hồ Chí Minh (HOREA) vừa tiếp tục có văn bản khẩn gửi Thủ tướng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, đề nghị Ngân hàng Nhà nước khẩn trương xem xét đề nghị gia hạn thêm 12 tháng thời điểm áp dụng quy định này.

Theo Thông tư 08/2020/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi Thông tư 22/2019/TT-NHNN quy định về giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, kể từ ngày 1/10/2023, các ngân hàng phải tuân thủ tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn là 30%, thay vì 34% như hiện nay.

Chủ tịch HOREA Lê Hoàng Châu cho rằng, bối cảnh của nền kinh tế nước ta hiện nay đã thay đổi rất khác so với bối cảnh lúc ban hành Thông tư 08/2020/TT-NHNN năm 2020 và đang đứng trước các thách thức rất lớn, từ tác động của “các cơn gió ngược” tác động bất lợi đến kinh tế - xã hội. Theo đó, lĩnh vực bất động sản do phát sinh những nhân tố khách quan, bất ngờ, không thể dự đoán được tại thời điểm ban hành Thông tư 08/2020/TT-NHNN ngày 14/08/2020.

Theo Chủ tịch HOREA, nền kinh tế và thị trường bất động sản vẫn còn rất khó khăn do tác động của “các cơn gió ngược”, nên đã có những doanh nghiệp thuộc nhiều ngành kinh tế thu hẹp sản xuất kinh doanh nên giảm hoặc thậm chí không có nhu cầu vay tín dụng. 

Riêng đối với nhiều doanh nghiệp bất động sản, vẫn có nhu cầu vay tín dụng nhưng lại khó tiếp cận tín dụng. Nguyên nhân chủ yếu là do các dự án bất động sản, nhà ở thương mại bị vướng pháp lý.

“Mặc dù các chủ đầu tư đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đã tạo lập được quỹ đất dự án phù hợp với quy hoạch, nhưng lại chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư, nên chưa được phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500, chưa được giao đất, chưa được cấp phép xây dựng. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại yêu cầu doanh nghiệp phải có “chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư”, phải có quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500, phải có Giấy phép xây dựng, dự án phải có tính khả thi mới được vay tín dụng”, Chủ tịch HOREA cho biết.

Đại diện HOREA cho rằng, chỉ cần các ngân hàng thương mại xem xét “nới tay” một chút cho doanh nghiệp được vay tín dụng để bù đắp tài chính, có dự án đầu tư bảo đảm tính khả thi hoặc có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất (sổ đỏ) của các thửa đất đã nhận chuyển nhượng trong dự án đã nhận chuyển nhượng trong dự án và doanh nghiệp chấp nhận thị giá của các sổ đỏ này do ngân hàng thương mại định giá giá trị tài sản thế chấp sẽ giúp cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Giải pháp này cũng sẽ góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 14% của năm 2023, vì đến ngày 15/9, tăng trưởng tín dụng nền kinh tế mới đạt gần 12,6 triệu tỷ đồng, chỉ tăng 5,56% so với cuối năm 2022, còn gần 1 triệu tỷ đồng có thể bơm vào nền kinh tế.

Do vậy, HOREA đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét chỉ đạo và đề nghị Ngân hàng Nhà nước khẩn trương xem xét sửa đổi, bổ sung Thông tư 08/2020/TT-NHNN theo hướng gia hạn thêm 12 tháng thời điểm áp dụng quy định “các tổ chức tín dụng sử dụng tối đa 30% nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn” áp dụng từ ngày 01/10/2024, thay vì áp dụng từ ngày 01/10/2023.

Việc gia hạn này cũng là để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng được sử dụng hợp lý nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung hạn, dài hạn, theo đó đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 5 Điều 16 Thông tư 22/2019/TT-NHNN (được sửa đổi, bổ sung tại Điều 1 Thông tư 08/2020/TT-NHNN).

Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN.

Trước đó, vào tháng 7/2023, HOREA cũng đã có 2 văn bản đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét gia hạn thêm 12 tháng thời điểm áp dụng quy định này.

Trên thực tế, vấn đề cần thiết phải giảm tỷ lệ vốn vay ngắn hạn để cho vay trung dài hạn liên tục được lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước và giới chuyên gia tài chính đề cập và nhấn mạnh trong các cuộc họp, tọa đàm. Bởi lẽ, với một nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, việc giảm dần tỷ lệ này là yêu cầu bắt buộc để đảm bảo an toàn vốn cho hệ thống tài chính quốc gia cũng như phù hợp với các thông lệ quốc tế.

Tại các ngân hàng thương mại, hầu hết các khoản gửi tiết kiệm của người dân ở các ngân hàng đều có kỳ hạn ngắn. Vì vậy, hầu hết nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng không đủ để đáp ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Trong khi đó, phần lớn dư nợ bất động sản có thời gian từ 10-25 năm. Do đó, để đảm bảo an toàn hệ thống cũng như hạn chế dần tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, Ngân hàng Nhà nước đã đề ra lộ trình giảm tỷ lệ sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn.

Tỷ lệ này đã được điều chỉnh giảm dần từ 60% kể từ ngày 1/2/2015 về 45% từ ngày 1/1/2018; về 40% từ ngày 1/1/2020; về 37% từ ngày 1/10/2020 và về 34% từ ngày 1/10/2021. Việc giảm tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung, dài hạn về 30% áp dụng từ 1/10/2023 là giai đoạn cuối hoàn tất lộ trình mà Ngân hàng Nhà nước đề ra.

Các chuyên gia của Công ty cổ phần Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV) cho rằng, trong dài hạn, với chủ trương lành mạnh hóa hoạt động tín dụng và bảo đảm thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, việc áp dụng quy định mới được kỳ vọng sẽ giúp các ngân hàng kiểm soát tốt hơn rủi ro thanh khoản, ổn định hoạt động trước những thay đổi trong và ngoài nước, đồng thời thúc đẩy phát triển nền kinh tế bền vững.

Tuy vậy, trong ngắn hạn, KBSV cho rằng, việc hạ tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ làm chậm quá trình giảm lãi suất cho vay các kỳ hạn dài của các ngân hàng trong bối cảnh nền kinh tế đang cần được hỗ trợ để tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, Thông tư mới cũng sẽ phần nào gây áp lực lên nhu cầu huy động kỳ hạn dài của các ngân hàng, làm tăng chi phí vốn của các ngân hàng, gây áp lực làm thu hẹp biên lãi ròng.

Về phía các doanh nghiệp bất động sản, một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng chính của quy định này được dự báo sẽ gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận vốn ở thời điểm này, nhất là trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các kênh huy động vốn khác còn nhiều khó khăn.

H.Chung