Cơ hội xuất khẩu gạo đang mở
Giá gạo Việt Nam giảm khi vào rộ vụ Đông Xuân | |
Thái Lan thúc đẩy xuất khẩu gạo bằng hợp đồng G2G |
Ông Nguyễn Ngọc Nam, Quyền Tổng giám đốc Vinafood2, tân Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã có cuộc trao đổi với PV Báo NNVN vấn đề này.
Ông Nguyễn Ngọc Nam |
Trong chiến lược phát triển ngành hàng lúa gạo VN cần làm gì để nâng cao chất lượng, giá trị ngay từ bây giờ?
Vừa qua tại hội nghị “Đẩy mạnh liên kết và tiêu thụ lúa gạo, xây dựng vùng nguyên liệu gạo an toàn, chất lượng cao vùng ĐBSCL” do Bộ NN-PTNT tổ chức ở TP Cần Thơ, tôi nghĩ sẽ tạo chuyển biến mới trong sản xuất lúa gạo VN nói chung và ĐBSCL nói riêng, nhất là trong điều kiện thích ứng biến đổi khí hậu, làm thế nào tăng hiệu quả, tăng thu nhập cho người trồng lúa. Đây là cơ hội, nhưng thật sự phải có sự gắn kết bền vững giữa người sản xuất và doanh nghiệp. Bởi vì doanh nghiệp không thể nào ký hợp đồng đơn lẻ với hai, ba hộ nông dân, phải tổ chức sản xuất quy mô như HTX mới thực hiện được.
Về Hiệp định CPTPP vừa mới ký kết mở ra triển vọng gì cho ngành hàng lương thực?
Đáng mừng hiệp định CPTPP (Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) gồm 11 nước thành viên trong đó có Việt Nam, vừa được ký kết. Hiệp định CPTPP có nhiều nội dung, trong đó ngành lương thực, lúa gạo Việt Nam sẽ thuận lợi hơn trong việc xử lý các rào cản kỹ thuật đối với các quốc gia là đối tác trong liên kết này. Cụ thể như thế nào còn phải chờ, nhưng chắc chắn đối với Việt Nam việc sản xuất lương thực, lúa gạo và nông nghiệp nói chung là có lợi, mở ra cơ hội mới. Cũng từ hiệp định này chúng ta từng bước xuất khẩu vào thị trường các nước tham gia hiệp định, đòi hỏi chất lượng cao, an toàn, là cơ hội cải tiến sản xuất. Đó là động lực để chúng ta thay đổi.
Chuyển biến thị trường tiêu thụ vừa qua, loại gạo nào tăng mạnh, hút hàng, thưa ông?
Tình hình xuất khẩu gạo đang khả quan. Giá xuất khẩu gạo thơm, gạo chất lượng cao ổn định, do nhu cầu tăng mạnh, trong đó tỷ trọng xuất khẩu gạo thơm tăng nhanh, năm 2013 từ 4,8% năm 2013 lên 9,2% năm 2017; gạo trắng xuất giảm dần, tỷ trọng còn 21,65%. Nhưng gạo nếp tăng đột biến từ 6,49% (2013) tăng lên 20,87% (2017). Những năm gần đây gạo Nhật (Japonica) tăng từ 1,02% (2015) lên 3,24% (2017).
Từ dữ liệu thông tin trên ông nhận định và dự đoán gì về xuất khẩu gạo VN?
Qua 2 tháng đầu năm 2018 số lượng hợp đồng ký kết xuất khẩu tiếp tục tăng hơn cùng kỳ và giá cả cũng tăng hơn. Theo ước đoán xuất khẩu gạo năm 2018 có thể đạt trên 6 triệu tấn, tăng hơn năm 2017. Trung Quốc vẫn là thị trường lớn về nhập khẩu gạo VN.
Trong những năm qua một số nước, cụ thể như Indonesia từng thông báo tự cân đối được nguồn cung lương thực trong nước. Thế nhưng vào đầu năm 2018, Indonesia lại nhập khẩu 500.000 tấn gạo. Trong khi một vài nước sản xuất lúa gạo trước đây có nguồn tồn kho lớn như Thái Lan trên 20 triệu tấn, kéo dài đến năm 2017 đã tiêu thụ hết tồn kho. Hay như Ấn Độ sau nhiều năm liên tục dẫn đầu xuất khẩu gạo thì nay lượng tồn kho dự trữ đã giảm. Do đó đây là cơ hội của những nước sản xuất và xuất khẩu gạo, trong đó có Việt Nam.
Như đã nói, nhu cầu gạo thơm, gạo chất lượng cao, gạo đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm còn rất lớn, trong khi những năm qua VN bán toàn loại gạo cấp trung bình. Gạo chất lượng cao và gạo thơm chúng ta tuy có xuất nhưng thiếu sự ổn định.
Ảnh minh họa |
Nhận định thị trường và định hướng sản xuất lúa thế nào thưa ông?
Định hướng sản xuất lúa nhắm vào các trị trường trọng điểm. Năm 2017 TQ nhập khẩu chính ngạch gạo của VN 2,4 triệu tấn, sang năm 2018 có khả năng tăng lên 2,7 triệu tấn gạo cấp cao, nếp và tấm; châu Phi dự kiến sẽ khập khoảng 1 triệu tấn gạo cấp cao và gạo trung bình; Philippines nhập khoảng 800.000 tấn gạo cấp cao và gạo trung bình; Indonesia nhập khoảng 800.000 tấn gạo cấp cao, gạo trung bình và nếp. Hiện nay các loại gạo đặc sản, gạo thơm cao cấp và gạo Nhật nông dân đang tăng diện tích sản xuất theo nhu cầu thị trường. Đối với gạo phẩm chất trung bình đang có xu hướng giảm, nhưng riêng giống lúa IR50404 nhu cầu để ăn, làm bột vẫn còn lớn. Trong khi gạo nếp năm 2017 sản xuất 1,4 triệu tấn, trong đó xuất khẩu chủ yếu sang TQ 1,2 triệu tấn. Nếu chỉ dựa vào thị trường này sẽ tiềm ẩn rủi ro nên hướng sản xuất cân đối khoảng 700.000-800.000 tấn/năm.
Xin cảm ơn ông!