Cần chính sách 'tiền tươi, thóc thật' cho doanh nghiệp
Chính sách chưa thẩm thấu đến các doanh nghiệp
Tại toạ đàm "Chính sách trực tuyến hỗ trợ doanh nghiệp trong đại dịch COVID-19: Từ chính sách đến thực tiễn" do Báo Hải quan tổ chức, Phó Giám đốc thường trực Văn phòng Ban Nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân, bà Phạm Thị Ngọc Thủy cho rằng đối với doanh nghiệp hiện nay khó khăn lớn nhất là sức khỏe về tài chính.
Do đó, những hỗ trợ với doanh nghiệp lúc này thực sự là "phao cứu sinh" với họ. Tuy nhiên giữa kỳ vọng trong thực tiễn với những gì mà chính sách thiết kế, vẫn còn giữ khoảng cách nhất định.
Bà cho biết theo phản ánh của doanh nghiệp, ngay cả sau hai lần sửa đổi bổ sung Thông tư 01, quá trình thực hiện ở các ngân hàng cũng không đồng nhất, doanh nghiệp khó tiếp cận.
Nhiều doanh nghiệp than phiền về việc các chính sách thiết kế phức tạp không thuận lợi, những thủ tục, hồ sơ giấy tờ phức tạp trong khối ngân hàng.
Đồng quan điểm, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết thực tiễn cho thấy so với công sức và thời gian mà doanh nghiệp bỏ ra, khoản tiền hỗ trợ chưa thực sự tương xứng.
"Quy trình thủ tục làm mất công mất sức, thậm chí doanh nghiệp phải chứng mình đến hàng tập hồ sơ nhưng ngân sách nhận được lại quá nhỏ cho nên cuối cùng doanh nghiệp từ bỏ," ông Tuấn chia sẻ.
Bà Thuỷ cũng nhấn mạnh về nguyện vọng lớn nhất của doanh nghiệp lúc này là được hoạt động. Theo bà, dòng tiền như là máu của doanh nghiệp, để vực dậy doanh nghiệp thì trước tiên cần cho họ được hoạt động, mọi hỗ trợ đều đáng quý nhưng của chưa đủ vì nguồn lực chung đều rất hạn chế.
Chúng ta đang nói nhiều đến gói chính sách hỗ trợ nhưng nguyện vọng lớn nhất của doanh nghiệp lúc này là được hoạt động.
Bà Phạm Thị Ngọc Thủy
Bên cạnh đó, trong việc thiết kế các chính sách cũng nên đề cập tới tính chủ động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cũng mong muốn được cơ quan Nhà nước đặt vào trong bài toán quản lý thay vì chỉ là một đối tượng "chịu "sự quản lý hay "được" nhận hỗ trợ.
Trong gần hai năm qua, các chính sách luôn đặt doanh nghiệp ở vai trò bị động trong khi bản thân doanh nghiệp suy cho cùng là bài toán phục hồi kinh tế, đóng vai trò chủ thể chính trong việc thực hiện mục tiêu kép.
Bà Thuỷ cho rằng phần tham vấn doanh nghiệp cần được chú trọng hơn, thay vì chỉ các chuyên gia và cơ quan quan lý làm việc với nhau trong quá trình xây dựng chính sách.
Thậm chí, các cơ quan đầu mối như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước,... phải "ngồi riêng" với từng nhóm doanh nghiệp để đánh giá về dư địa phục hồi, mức độ ảnh hưởng, chính sách nào thực sự có hiệu quả và đã đạt được những mục tiêu gì.
Cần "tiền tươi, thóc thật"
Đánh giá về các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay, ông Đậu Anh Tuấn, cho rằng những chính sách về thuế, tín dụng vừa qua đã tác động tích cực đến các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu so với giải pháp mà các nước đang thực hiện, chính sách của Việt Nam mới chỉ thực hiện từ hướng giảm thu chứ chưa tăng chi để hỗ trợ doanh nghiệp.
Theo ông, mức độ chi để hỗ trợ doanh nghiệp hiện nay còn ít. Việc giảm thu chỉ có những doanh nghiệp đang có nguồn thu mới được hưởng chính sách. Trong khi đó, nguồn thu những doanh nghiệp tại một số lĩnh vực hiện nay gần như bằng 0, thậm chí không có khoản nào cả. Dẫn tới tỷ lệ doanh nghiệp thụ hưởng chính sách rất hạn chế.
"Một số chính sách hỗ trợ trong lĩnh vực thuế hay ngân hàng thì thường ban hành tương đối ngắn hạn, chưa tướng xứng với tình trạng khó khăn và khả năng phục hồi cả doanh nghiệp," ông Tuấn cho biết.
Cụ thể, một số quy định về thuế hiện nay chỉ áp dụng trong quý III và quý IV trong khi đó bản thân doanh nghiệp hiện nay ước tính sớm nhất vào giữa 2022 mới phần nào có thể hồi phục. Do đó, ông Tuấn cho rằng chính sách phải dài hạn hơn, tương xứng với bối cảnh đặc biệt khó khăn hiện nay,
Ngoài ra, nhiều chính sách hỗ trợ đang thiết kế ở mức "hoãn" chứ chưa phải "giảm". Mặc dù, doanh nghiệp cũng được thụ hưởng việc không phải trả lãi trong quá trình hoãn, giãn nợ nhưng suy cho cùng gánh nặng tài chính vẫn như một quả bom treo lơ lửng trên đầu doanh nghiệp.
Ông Tuấn hy vọng trong thời gian tới nhóm giải pháp cần mạnh hơn, "tiền tươi, thóc thật" chứ hoãn, giãn thì đến một lúc nào đấy doanh nghiệp cũng phải nộp.
Về vĩ mô, ông Tuấn cho biết theo đánh giá của các nhà kinh tế, quy mô của các gói hỗ trợ tại Việt Nam còn khiêm tốn so với các nước. Nhìn trong khu vực, chẳng hạn như Thái Lan có gói hỗ trợ chiếm đến 12,4% GDP hay gói hỗ trợ của Indonesia chiếm 5,4% GDP.
"Nhiều nhà kinh tế ước tính gói hỗ trợ của Việt Nam có thể mở rộng ra đến 4% GDP, tương đương 250.000 tỷ đồng," ông Tuấn chia sẻ.