Bộ trưởng Bộ Công Thương: Dừng nhiệt điện than giai đoạn 2021-2030 là chưa khả thi
Tại buổi hội đàm với Bộ trưởng Bộ Năng lượng, Thương mại và Chiến lược công nghiệp Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết nhiệt điện than hiện nay chiếm khoảng trên 32% tổng công suất nguồn điện toàn quốc và đang đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia của Việt Nam.
Đây là một trong số các nguồn cung cấp điện chính đáp ứng nhu cầu điện năng cho phát triển kinh tế xã hội, duy trì sự vận hành ổn định của toàn hệ thống.
Vì vậy, trong giai đoạn 2021-2030, có thể khẳng định rằng mong muốn dừng hẳn phát triển các nhà máy nhiệt điện than là chưa khả thi.
Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045 (Quy hoạch điện VIII) đã bám sát các mục tiêu đề ra trong quá trình xây dựng và hoàn thiện cũng như đánh giá một cách toàn diện những tác động đối với việc đảm bảo an ninh cung cấp điện khi xem xét tỷ lệ giảm dần các nguồn điện than.
Theo đó, tới năm 2030, Việt Nam sẽ không phát triển thêm các nhà máy nhiệt điện than mới ngoài các dự án đã được phê duyệt tại Quy hoạch điện VII điều chỉnh, hạn chế tối đa phát triển thêm các nhà máy nhiệt điện than mới tới năm 2045 và từng bước loại bỏ các nhà máy nhiệt điện than đã vận hành nhiều năm, công nghệ lạc hậu.
Tại Dự thảo Quy hoạch điện VIII, tổng nguồn nhiệt điện than tới năm 2030 là 40,7 GW, thấp hơn gần 15GW so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh (55,3 GW vào năm 2030 theo phương án cơ sở).
Như vậy, gần 15GW từ nguồn nhiệt điện than trong Quy hoạch VII điều chỉnh đã được loại bỏ, thay thế hoặc đẩy lùi sau năm 2030 trong Dự thảo Quy hoạch điện VIII.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam rất quan tâm đến phát triển năng lượng tái tạo nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính.
Nhiều chính sách cụ thể đã được ban hành nhằm khuyến khích phát triển các loại hình năng lượng tái tạo như chính sách giá bán điện cố định (FIT) đối với điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, điện từ chất thải rắn.
Ngoài ra, các dự án điện năng lượng tái tạo còn được hưởng nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi khác như được ưu tiên phát điện, tỷ giá ổn định, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu...
Nhờ các chính sách khuyến khích này, thời gian qua, nhất là trong hai năm 2019-2020, đã có sự phát triển rất nhanh của năng lượng tái tạo ở Việt Nam (đặc biệt là điện mặt trời). Các nguồn năng lượng tái tạo đã hỗ trợ tích cực cung cấp nguồn điện góp phần đảm bảo cung ứng điện, giảm phát thải khí nhà kính và các phát thải ô nhiễm khác như SOx, NOx, bụi…
Cũng theo Bộ Công Thương, hiện nay Bộ đang phối hợp cùng các bộ ngành, cơ quan liên quan tính toán, nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể về các khả năng và kịch bản phát triển kinh tế xã hội, năng lượng và môi trường để đạt được mục tiêu trung hòa cacbon trong thời gian sớm nhất và sẽ được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam công bố tại Hội nghị COP26.