Toàn cảnh bức tranh ngân hàng niêm yết quí I/2019
(Ảnh minh họa)
Theo tổng hợp từ báo cáo của CTCP Chứng khoán Sài Gòn (SSI), tổng tài sản của 17 ngân hàng đang niêm yết ở 3 sàn (HOSE, HNX, UPCoM) là 6,72 triệu tỉ đồng, vốn chủ sở hữu là 472,4 nghìn tỉ đồng, tăng lần lượt là 1,1% và 5,9% so với cuối năm 2018.
Trong đó, một số ngân hàng có mức tăng vốn chủ sở hữu cao trong quí I/2019 là Vietcombank tăng 14,2% nhờ hoàn tất việc phát hành 111 triệu cổ phiếu cho GIC và Mizuho; LienVietPostBank tăng 14% sau khi phát hành thêm 100, 6 triệu cổ phiếu giá 10.000đ/cp cho cổ đông hiện hữu; ACB tăng 6,5%; TPB tăng 6,6% nhờ gia tăng lợi nhuận chưa phân phối.
Tổng thu nhập hoạt động là 67.898 tỉ đồng, tăng 10% so với cùng kì năm trước trong đó thu nhập từ lãi, dịch vụ, ngoại hối và vàng tăng lần lượt là 16,4%, 47,8%, 41,7% trong khi các khoản thu nhập từ chứng khoán, góp vốn, khác đều giảm mạnh. Thu nhập từ lãi vẫn chiếm tỉ trọng lớn (79%) trong tổng thu nhập. Tổng lợi nhuận sau thuế quí I/2019 là 20.691 tỉ đồng, tăng 12,1%.
Tăng trưởng cho vay khách hàng chậm hơn cùng kì 2018
Nguồn: SSI Research
Tổng dư nợ cho vay (chưa tính đến số dư trái phiếu doanh nghiệp) tại 31/3/2019 là 4.435.541 tỉ đồng, tăng 3,4% so với đầu năm và thấp hơn mức tăng 4,1% trong quí I/2018. Sự sụt giảm qui mô dư nợ của VietinBank ( giảm 0,4% trong khi quí I/2018 là 4,5%) là tác nhân chính.
Nếu loại trừ VietinBank, tăng trưởng cho vay quí I của 16 ngân hàng thương mại còn lại là 4,4%, cao hơn cùng kì năm trước. Trong đó top 5 tăng trưởng mạnh nhất thuộc về TPBank (9,8%), MBB (6,7%), Vietcombank (6,4%), VIB (6%) và Sacombank (5,6%).
Tăng trưởng huy động sụt giảm và hiện ở mức thấp hơn tăng trưởng cho vay
Cuối tháng 3, tổng huy động (tiền gửi khách hàng + phát hành giấy tờ có giá) là 5.178.162 tỉ đồng, tăn 3,1% thấp hơn mức tăng trưởng cho vay (3,4%). Nếu loại trừ nhân tố VietinBank, tăng trưởng huy động quí I cũng chỉ là 3,7%, vẫn thấp hơn tăng trưởng cho vay là 4,4%.
Như vậy, từ mức tăng trưởng ngang với tín dụng là 4,1% trong quí I/2018, huy động đang sụt giảm mạnh trong 3 tháng đầu năm 2019 dù lãi suất huy động đã cao hơn từ 0,5-0,7% so với cùng kì 2018. Nguyên nhân là sự cạnh tranh từ các kênh đầu tư khác, trong đó đáng kể nhất là kênh phân phối trái phiếu qua hệ thống ngân hàng.
Tỉ lệ cho vay khách hàng/huy động tăng từ 88,3% cuối 2018 lên 88,6% vào 31/3/2019.
Nợ xấu có dấu hiệu tăng nhưng tỉ lệ bao nợ xấu có cải thiện
Tỉ lệ nợ xấu và tỉ lệ nợ nhóm 2 trên tổng cho vay khách hàng tại cuối quí I/2019 là 1,72% và 1,59%, đều tăng lần lượt là 1,63% và 1,37% so với cuối năm 2018.
Trong 6.000 tỉ nợ xấu nội bảng tăng thêm trong ba tháng đầu năm, 73% đến từ ba ngân hàng lớn là VietinBank, BIDV và Vietcombank (lần lượt là 2.445 tỉ đồng, 1.178 tỉ đồng và 737 tỉ đồng). SSI Research nhận định do BIDV và Vietcombank duy trì được tăng trưởng tín dụng tốt nên tỉ lệ nợ xấu chỉ tăng thêm 0,05% so với cuối 2018 trong khi tăng mạnh từ1,56% lên 1,85% do dư nợ sụt giảm tại VietinBank.
Nguồn: SSI Research
Bên cạnh đó, nợ cần chú ý (nhóm 2) cũng tăng tới gần 9.946 tỉ đồng trong đó nhiều nhất là BIDV với 3.143 tỉ đồng. Top 3 phía sau là VPBank: 1.821 tỉ đồng, HDBank 1.118 tỉ đồng và Techcombank 963 tỉ đồng.
Điểm sáng về nợ xấu của nhóm ngân hàng là tỉ lệ trích lập dự phòng/nợ xấu ở hầu hết các ngân hàng đều cải thiện, bình quân tăng từ 84,9% lên 86,3%. Trong đó các ngân hàng có tỉ lệ bao nợ xấu ở mức trên 100% là Vietcombank, ACB, VietinBank, BacABank. Tuy nhiên, vẫn có 3 ngân hàng ghi nhận giảm đó là BIDV, MBBank và TPBank.
Thu nhập từ dịch vụ tăng trưởng tốt và gia tăng tỷ trọng trong cơ cấu thu nhập của ngân hàng
Tổng thu nhập từ dịch vụ quí I/2019 là gần 7.000 tỉ đồng, tăng 48% so với cùng kì và chiếm tỉ trọng 10,3% trong tổng thu nhập, cao hơn so với quí I/2018 là 7,7% và cả năm 2018 là 10,1%.
Một số ngân hàng có thu nhập dịch vụ tăng mạnh là BacABank, VIB, TPBank, MBBank, SHB. Thu nhập từ bancassurance tiếp tục đóng góp phần quan trong trong tổng thu dịch vụ của nhiều ngân hàng, MBBank là 778 tỉ đồng, VPBank là 611 tỉ đồng, VIB là 209 tỉ đồng...
Nguồn: SSI Research