|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

Thu nhập của người lao động năm 2018 bình quân 5,5 triệu/tháng

22:26 | 12/07/2018
Chia sẻ
Thu nhập của người lao động hiện đạt bình quân trên 5,5 triệu đồng/tháng, đa số người lao động cho biết mặc dù còn nhiều khó khăn, song thu nhập cơ bản đủ trang trải cho cuộc sống...
thu nhap cua nguoi lao dong nam 2018 binh quan 55 trieuthang Bảy khác biệt giữa doanh nhân và người lao động
thu nhap cua nguoi lao dong nam 2018 binh quan 55 trieuthang
PGS-TS Vũ Quang Thọ - viện trưởng Viện Công nhân và công đoàn - công bố kết quả khảo sát tiền lương, mức sống của người lao động năm 2018 chiều 12-7 - Ảnh: Đ.BÌNH

Đây là kết quả khảo sát về tình hình lao động, tiền lương, thu nhập, chi tiêu, đời sống của người lao động (NLĐ) trong các doanh nghiệp năm 2018 vừa được Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam công bố chiều 12-7.

Cuộc khảo sát được Viện Công nhân và công đoàn tiến hành với trên 3.000 NLĐ tại 150 doanh nghiệp đủ các loại hình ở 25 tỉnh, thành phố.

"Số lượng NLĐ và doanh nghiệp được khảo sát tăng gấp 3 lần mọi năm", PGS.TS Vũ Quang Thọ - viện trưởng Viện Công nhân và công đoàn, đơn vị tiến hành khảo sát - cho biết.

Lương cơ bản tăng

Tiền lương cơ bản hàng tháng của NLĐ (làm đủ giờ công, ngày công) nhận được trung bình là 4,67 triệu đồng, tăng 4,24% so với kết quả khảo sát năm 2017.

Mức lương cơ bản trung bình như vậy là cao hơn lương tối thiểu gần 40% (cụ thể, vùng I cao hơn 36,6%; vùng II cao hơn 27,9%: vùng III cao hơn 39,3% và vùng IV cao hơn 44,7%). Tuy nhiên khảo sát cũng cho thấy vẫn còn một bộ phận NLĐ nhận được mức lương cơ bản thấp hơn mức lương tối thiểu vùng.

Ngoài tiền lương cơ bản, NLĐ còn nhận được tiền làm thêm giờ, tiền chuyên cần và các khoản phụ cấp, trợ cấp, hỗ trợ khác từ doanh nghiệp với nhiều tên gọi khác nhau để tăng thu nhập, giữ chân NLĐ, nhưng các khoản này thường không tính vào mức đóng bảo hiểm (trừ phụ cấp trách nhiệm, chức vụ).

Tổng thu nhập trung bình của NLĐ (không kể tiền ăn ca) do đó đạt gần 5,53 triệu đồng/tháng (cao hơn lương cơ bản là 18,4%), tăng hơn 1,4% so với kết quả khảo sát năm 2017. Với mức tổng thu nhập như vậy, tiền lương cơ bản chiếm 84,4%.

Hộ gia đình NLĐ chi tiêu trung bình 7,38 triệu đồng/tháng

Qua số liệu xử lý phiếu khảo sát năm 2018, có 2.885 NLĐ đang sống chung hộ gia đình với người thân, với số lượng, cơ cấu là 3,7 nhân khẩu/hộ, trong đó có 2,05 người phụ thuộc (con nhỏ) và 1,65 lao động hưởng lương, cho thấy mức chi tiêu trung bình của một hộ gia đình khoảng 7,38 triệu đồng/tháng.

Qua khảo sát, với thu nhập và chi tiêu hiện nay (không có biến động về việc làm, thu nhập và đời sống), 32% NLĐ cho biết gia đình họ có khoản tiền tiết kiệm, trung bình 1,5 triệu đồng/tháng, để chi tiêu dịp lễ Tết, lúc ốm đau, hoạn nạn, thất nghiệp và tích lũy đầu tư cho việc học hành của con cái.

Ông Thọ cho biết so sánh thu nhập với chi tiêu của NLĐ và gia đình, thì có 17,4% NLĐ cho biết có dư dật và tích luỹ; 43,7% cho biết vừa đủ trang trải cho cuộc sống; 26,5 % phải chi tiêu tằn tiện và kham khổ; 12,5% cho biết thu nhập không đủ sống.

So với năm 2017, tỷ lệ NLĐ cho biết thu nhập so với chi tiêu "có dư đật, tích lũy" tăng 1,3%; số NLĐ gặp khó khăn "không đủ sống, phải làm thêm giờ" chỉ tăng nhẹ (0,5%), nhưng tỉ lệ NLĐ "vừa đủ trang trải cho cuộc sống" giảm 7,6%; tỉ lệ NLĐ phải chi tiêu "tằn tiện, kham khổ" tăng lên 5,8%.

"Nhưng nhìn chung, đa số NLĐ cho biết mặc dù còn nhiều khó khăn, song thu nhập cơ bản đủ trang trải cho cuộc sống", viện trưởng Viện Công nhân và công đoàn nhấn mạnh.

Đánh giá mức độ hài lòng với tiền lương, thu nhập của mình, 17,2% NLĐ cho biết hài lòng, giảm 5,5% so với năm 2017; tỉ lệ tạm hài lòng là 65,7%, tăng 13,3%; tỉ lệ không hài lòng là 17,1%, giảm 7,8%.

Hầu hết các doanh nghiệp nâng lương cho NLĐ

Theo ông Vũ Quang Thọ, hầu hết các doanh nghiệp đã xây dựng thang, bảng lương, trong đó doanh nghiệp (DNNN) nhà nước là 92,1%; dân doanh là 90,6%; doanh nghiệp FDI là 88,0%.

Về hình thức, quy chế trả lương, có 61% NLĐ được trả lương theo thời gian, 31,4% được trả lương theo sản phẩm, và 7,6% được trả lương theo hình thức hỗn hợp.

Các doanh nghiệp cũng thực hiện nâng lương định kỳ theo thang, bảng lương cho NLĐ, hoạt động này được thực hiện tốt hơn ở các DNNN, song thời hạn nâng lương lại dài hơn các loại hình khác, thường là 2-3 năm/lần. Các doanh nghiệp FDI và dân doanh thường nâng lương theo mức độ hoàn thành công việc, xếp loại hàng năm, thời hạn xét nâng lương cũng ngắn hơn, mức tăng trung bình 5%/bậc.

Hầu hết các doanh nghiệp nâng lương cho NLĐ

Theo ông Vũ Quang Thọ, hầu hết các doanh nghiệp đã xây dựng thang, bảng lương, trong đó doanh nghiệp (DNNN) nhà nước là 92,1%; dân doanh là 90,6%; doanh nghiệp FDI là 88,0%.

Về hình thức, quy chế trả lương, có 61% NLĐ được trả lương theo thời gian, 31,4% được trả lương theo sản phẩm, và 7,6% được trả lương theo hình thức hỗn hợp.

Các doanh nghiệp cũng thực hiện nâng lương định kỳ theo thang, bảng lương cho NLĐ, hoạt động này được thực hiện tốt hơn ở các DNNN, song thời hạn nâng lương lại dài hơn các loại hình khác, thường là 2-3 năm/lần. Các doanh nghiệp FDI và dân doanh thường nâng lương theo mức độ hoàn thành công việc, xếp loại hàng năm, thời hạn xét nâng lương cũng ngắn hơn, mức tăng trung bình 5%/bậc.

Hầu hết các doanh nghiệp nâng lương cho NLĐ

Theo ông Vũ Quang Thọ, hầu hết các doanh nghiệp đã xây dựng thang, bảng lương, trong đó doanh nghiệp (DNNN) nhà nước là 92,1%; dân doanh là 90,6%; doanh nghiệp FDI là 88,0%. Về hình thức, quy chế trả lương, có 61% NLĐ được trả lương theo thời gian, 31,4% được trả lương theo sản phẩm, và 7,6% được trả lương theo hình thức hỗn hợp. Các doanh nghiệp cũng thực hiện nâng lương định kỳ theo thang, bảng lương cho NLĐ, hoạt động này được thực hiện tốt hơn ở các DNNN, song thời hạn nâng lương lại dài hơn các loại hình khác, thường là 2-3 năm/lần. Các doanh nghiệp FDI và dân doanh thường nâng lương theo mức độ hoàn thành công việc, xếp loại hàng năm, thời hạn xét nâng lương cũng ngắn hơn, mức tăng trung bình 5%/bậc.

Xem thêm

Đức Bình