|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Nhà đất

Quĩ tín thác bất động sản Thái Lan muốn bán hai khách sạn gần 40 triệu USD ở TP HCM

17:47 | 05/10/2020
Chia sẻ
Hai khách sạn này bao gồm khách sạn 3 sao IBIS Saigon South và khách sạn 4 sao Capri by Frasers đều tọa lạc ở quận 7, TP HCM.

Tờ Dealstreet Asia vừa đưa tin về việc Quĩ tín thác đầu tư bất động sản Thái Lan Strategic Hospitality Extendable Freehold and Leasehold Real Estate Investment Trust (SHREIT) muốn bán ba khách sạn ở Đông Nam Á, trong đó có hai khách sạn ở Việt Nam và một khách sạn ở Indonesia.

Cụ thể, danh sách khách sạn này bao gồm: Khách sạn 3 sao IBIS Saigon South, khách sạn 4 sao Capri by Frasers ở quận 7, TP HCM và khách sạn 5 sao Pullman Jakarta Central Park ở thủ đô Jakarta của Indonesia.

Thông tin từ website SHREIT, khách sạn IBIS Saigon South có diện tích 936 m2 với 140 phòng có sàn gỗ, một nhà hàng và ba phòng họp. Khách sạn này đã đi vào vận hành 25 năm và được định giá 15,4 triệu USD.

Quĩ tín thác bất động sản Thái Lan muốn bán hai khách sạn gần 40 triệu USD ở TP HCM - Ảnh 1.

Khách sạn IBIS Saigon South. (Nguồn: SHREIT)

Còn khách sạn Capri by Frasers có diện tích 1.709 m2, gồm 175 phòng khách sạn kết hợp với căn hộ dịch vụ lưu trú, được định giá 23,4 triệu USD.

Quĩ tín thác bất động sản Thái Lan muốn bán hai khách sạn gần 40 triệu USD ở TP HCM - Ảnh 2.

Khách sạn Capri by Frasers. (Nguồn: SHREIT)

Khách sạn 5 sao Pullman Jakarta Central Park nằm ở phía Tây thủ đô Jakarta và liền kề Trung tâm mua sắm Central Park của Indonesia.

Khách sạn này có qui mô 25.144 m2 với 317 phòng, trong đó có 9 phòng họp với sức chứa 5.000 người và được định giá 104,36 triệu USD.

Quĩ tín thác bất động sản Thái Lan muốn bán hai khách sạn gần 40 triệu USD ở TP HCM - Ảnh 3.

Khách sạn Pullman Jakarta Central Park. (Nguồn: SHREIT)

Theo ghi nhận tại biên bản Đại hội đồng cổ đông bất thường lần 1 năm 2020, ông Deepong Sahachartsiri, Giám đốc Tài chính của SHREIT cho biết, đại dịch COVDI-19 đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến doanh thu, tình hình tài chính và hiệu quả kinh doanh của SHREIT.

Các khách sạn mà SHREIT đầu tư đang kinh doanh thua lỗ, trong khi gánh nặng chi phí quá lớn và nợ phải trả ở mức cao. Mặt khác, vốn lưu động của các khách sạn đang hoạt động cũng hạn chế và có khả năng không được tài trợ vốn trong thời gian tới.

Quĩ tín thác bất động sản Thái Lan muốn bán hai khách sạn gần 40 triệu USD ở TP HCM - Ảnh 4.

Tỉ lệ lập đầy của ba khách sạn nằm trong kế hoạch bán của SHREIT. (Nguồn: Biên bản Đại hội đồng cổ đông bất thường lần 1 năm 2020 của SHREIT).

"So với những khách sạn cùng phân khúc thì ba khách sản nằm trong kế hoạch chào bán có tỉ lệ lấp đầy rất thấp trong quí đầu năm nay, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài chính của công ty", biên bản đại hội bất thường nêu.

Ngoài ra, SHREIT còn vi phạm nhiều nghĩa vụ hợp đồng, có nguy bị các đối tác và bên cho vay khởi kiện.

Việc bán các khách sạn được xem là giải pháp để SHREIT dứt điểm những khó khăn về tài chính. SHREIT sẽ sử dụng số tiền thu được để trả các khoản nợ và các chi phí chưa thanh toán.

"SHREIT dự kiến những tháng còn lại của năm 2020 sẽ vô cùng thách thức và tiền cổ tức sẽ bị hoãn vô thời hạn", theo Dealstreet Asia.

Theo báo cáo tài chính soát xét bán niên, 6 tháng đầu năm nay SHREIT đạt hơn 1,9 triệu USD tổng doanh thu và lỗ ròng 2,2 triệu USD (cùng kì công ty đạt doanh thu 6,4 triệu USD và lãi ròng 2,6 triệu USD).

Trước đó vào ngày 30/1/2020, SHREIT nhận được văn bản chào mua 100% của hai công ty con đang sở hữu và vận hành ba khách sạn nói trên, gồm Strategic Hospitality Holding Limited (SHH) and Strategic Hospitality Holding Limited 2 (SHH2) từ LT Rubicon Limited (công ty có trụ sở ở thiên đường thuế tại Anh).

Theo tin từ Dealstreet Asia, tháng 4/2020, phía LT Rubicon Limited đưa ra mức giá chào mua 118 triệu USD nhưng sau đó đã điều chỉnh về 105 triệu USD.

Nguyên Ngọc

Đại biểu đề nghị lùi thời gian tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với bia, rượu thêm một năm
Đại biểu Quốc hội Hoàng Văn Cường cho rằng nên ban hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt vào năm tới nhưng thời gian áp dụng thì lùi lại một năm để cả người tiêu dùng và doanh nghiệp có thời gian chuyển đổi hành vi, chuyển đổi sản xuất.