Quí II mới là thời điểm nền kinh tế 'thấm đòn' nặng nề, cơ hội nào cho Việt Nam hậu COVID-19?
PGS.TS Phạm Thế Anh, Trưởng bộ môn Kinh tế vĩ mô, Đại học Kinh tế Quốc dân – NEU, Kinh tế trưởng tại Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP) vừa mới có bài nhận định về triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 và khuyến nghị chính sách.
Những kịch bản bi quan và lạc quan nhất của kinh tế Việt Nam thời đại dịch
Theo đó, PGS.TS Phạm Thế Anh cho hay triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2020 và xa hơn phụ thuộc vào khả năng khống chế bệnh dịch không chỉ trong nước mà còn ở cả trên thế giới.
Kịch bản lạc quan nhất được xây dựng dựa trên giả định bệnh dịch trong nước được khống chế hoàn toàn vào giữa tháng 5 và hoạt động kinh tế dần trở lại bình thường.
Trong khi đó, thế giới cũng bắt đầu nới dần các biện pháp phong tỏa. Tuy nhiên các hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch, lưu trú, vận tải hành khách vẫn còn dè dặt và chỉ dần hồi phục.
Tác động xấu nhất của COVID–19 sẽ rơi vào qúi II với mức suy giảm từ 2 – 3% trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp. Ngành chế biến chế tạo có thể lần đầu tiên chứng kiến mức tăng trưởng âm do đứt gãy nguồn cung và nhiều đơn hàng xuất khẩu bị cắt giảm, hủy bỏ hoặc trì hoãn.
Trong lĩnh vực dịch vụ, các ngành vận tải & kho bãi, dịch vụ lưu trú & ăn uống, nghệ thuật & giải trí giảm mạnh, từ 20 – 50%, trong khi đó y tế, truyền thông hay tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có thể duy trì mức tăng trưởng khá do những hoạt động liên quan đến phòng chống và khắc phục hậu quả của bệnh dịch.
Với kịch bản lạc quan này, tăng trưởng kinh tế Việt Nam được dự báo đạt khoảng 4,2% trong cả năm 2020.
Với các kịch bản trung tính hoặc bi quan, bệnh dịch trong nước được giả định kéo dài hơn sang nửa sau quí III thậm chí là quý IV năm 2020. Thế giới có thể phải tiếp tục các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội do sự tái phát của bệnh dịch ở nhiều trung tâm kinh tế tài chính quan trọng.
Mức độ tác động của COVID–19 lên các ngành nông lâm ngư nghiệp, sản xuất chế biến chế tạo và các ngành trong khu vực dịch vụ sẽ nghiêm trọng hơn. Mức tăng trưởng trong năm 2020 của kinh tế Việt Nam có thể chỉ là 1,5% trong kịch bản trung tính, hoặc thậm chí là – 1,0% trong kịch bản bi quan.
Trong bất kì kịch bản nào, trong thời kì hậu COVID–19 ở Việt Nam, sự phục hồi hoàn toàn của nhiều ngành như hàng không, du lịch hay thời trang xuất khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn và kéo dài một khi thế giới chưa khống chế hoàn toàn được bệnh dịch.
Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động thích ứng dịch chuyển sản xuất trong thời kì khó khăn. Sản xuất khẩu trang và đồ bảo hộ y tế là một ví dụ điển hình trong ngành dệt may khi trong thời kì hậu bệnh dịch các nước nhiều khả năng sẽ tăng cường các kho hàng dự trữ y tế của mình để phòng chống những cú sốc tương tự trong tương lai.
Trong ngắn hạn, thúc đẩy đầu tư công trong nửa sau của năm có thể bù đắp được những khó khăn tạm thời của nhiều ngành sản xuất. Tuy nhiên, chúng ta không thể thúc đẩy chi tiêu công mãi trong dài hạn do nguồn lực hạn hẹp.
Do vậy, triển vọng kinh tế Việt Nam những năm sau sẽ phụ thuộc nhiều vào việc phát triển thành công vác–xin hoặc thuốc đặc trị trên thế giới.
Một điểm đáng chú ý nữa là các con số tăng trưởng GDP không phản ánh được hết những khó khăn thực sự của nền kinh tế do chúng không phản ánh được đầy đủ hoạt động của khu vực phi chính thức vốn bị ảnh hưởng nặng nề hơn hẳn so với những đợt suy thoái trước đây.
Việc thực hiện phong tỏa và giãn cách xã hội khiến khu vực này, ước tính tương đương khoảng 30% GDP, gần như bị đóng cửa hoàn toàn.
Với thâm hụt tài khóa kéo dài dai dẳng trong nhiều thập kỉ qua Việt Nam là nước có nguồn lực tài khóa hạn hẹp. Ngay cả trong các năm nền kinh tế có tăng trưởng cao, thu ngân sách vượt dự toán, thì nhà nước vẫn chi nhiều hơn thu tối thiểu khoảng 3,5% GDP.
Do vậy, Việt Nam thiếu vắng các đệm tài khóa để ứng phó với những cú sốc đòi hỏi tiêu tốn nhiều nguồn lực như COVID-19. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ cũng bị ràng buộc bởi các mục tiêu về lạm phát và tỉ giá.
Nếu thực hiện nới lỏng tiền tệ với qui mô lớn như nhiều nền kinh tế hiện nay thì có thể dẫn đến mất giá tiền tệ, môi trường đầu tư trở nên rủi ro hơn và ít nhất là làm trì hoãn các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Với các nguồn lực hạn hẹp như vậy, các chính sách cần phải đúng trọng tâm, tránh dàn trải gây tốn kém nguồn lực. Việt Nam đã phản ứng sớm, quyết liệt và đang làm tốt trong việc phòng chống sự lây lan của bệnh dịch.
Tuy nhiên, thời gian cách li xã hội càng lâu, chi phí kinh tế càng tốn kém trong khi bệnh dịch có nguy cơ kéo dài. Do vậy, các kịch bản ứng phó chính sách khác nhau đối với các cấp độ về bệnh dịch nên được xây dựng.
Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải xây dựng được các phương án phòng chống bệnh dịch đi kèm sản xuất, phải tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp còn có khả năng hoạt động, tránh ngăn sông cấm chợ cực đoan như ở một số địa phương.
Tầm quan trọng của phát triển kinh tế nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực nên được đặt ngang hàng với công cuộc phòng chống dịch bệnh.
Các chính sách an sinh xã hội như chi trả bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ người bị tạm thời ngưng việc, trợ cấp cho người nghèo, người bị mất kế sinh nhai do tác động của giãn cách xã hội nên được ưu tiên hàng đầu và cần phải được triển khai nhanh chóng trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.
Đặc biệt, lao động trong khu vực phi chính thức cần được quan tâm hơn khi chiếm một tỷ trọng lớn, dễ tổn thương, chịu tác nặng nề nhất, và có thể nằm ngoài phạm vi được thụ hưởng của các chính sách hiện tại.
Trong khi đó, đối với các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng cần có sự phân loại và tập trung hơn.
Việc khoanh/ngưng hoặc miễn giảm các chi phí tài chính như lãi vay và tiền thuê đất nên được áp dụng đối với nhóm doanh nghiệp phải dừng hoạt động; các chính sách hoãn đóng BHXH, giảm tiền thuê đất, giảm lãi vay và khoanh nợ, giãn thu thuế VAT nên được thực hiện với các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng tiêu cực nhưng còn hoạt động, nhưng phải có các tiêu chí rõ ràng về các mức độ hỗ trợ để tránh cào bằng, dàn trải.
Còn lại, đối với nhóm các doanh nghiệp ít hoặc không bị ảnh hưởng, hoặc có hướng chuyển đổi hiệu quả, thì nên khuyến khích tín dụng, hết sức tạo điều kiện về môi trường thể chế và chính sách ngành bởi họ là gánh đỡ cho nền kinh tế trong thời kỳ khó khăn này.
Ngay cả khi bệnh dịch trong nước được kiểm soát hoàn toàn thì nhiều ngành dịch vụ và sản xuất hướng ra xuất khẩu có thể sẽ còn gặp khó khăn lâu dài một khi bệnh dịch còn chưa hoàn toàn biến mất ở các khu vực kinh tế – tài chính quan trọng trên thế giới.
Do vậy, thúc đẩy đầu tư công trong nửa cuối năm là việc nên làm để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, thúc đẩy đầu tư công không phải là việc mở rộng đầu tư công một cách dàn trải, thiếu kiểm soát.
Việt Nam chỉ nên đẩy nhanh những dự án, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia, đã được phê duyệt và có sẵn vốn thực hiện.
Việc chia nhỏ ra làm nhiều gói thầu và thực hiện rải rác ở nhiều địa phương để nhiều doanh nghiệp và nhiều địa phương có thể tiếp cận, tạo sự lan tỏa tốt hơn cũng có thể được cân nhắc.
Đồng thời, cắt giảm ngân sách thường xuyên (tiêu dùng) tối thiểu 10% nên được thực hiện nhằm dành nguồn lực cho việc khắc phục những hậu quả do bệnh dịch gây ra.
Cuối cùng, song hành với những chính sách mang tính ngắn hạn hiện tại trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực của COVID-19, Việt Nam nên tiếp tục và cải thiện những chính sách dài hơi hơn để cải thiện nền tảng vĩ mô và giảm thiểu rủi ro trong tương lai.
Trong mọi tình huống, lạm phát, lãi suất và tỉ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị cho giai phục hồi sau bệnh dịch. Đa dạng hóa thị trường xuất/nhập khẩu cần được chú trọng hơn nữa nhằm tránh phụ thuộc nặng nề vào một số đối tác kinh tế lớn.
Trong khó khăn, nhiều bất cập trong việc điều hành chính sách kinh tế cũng đã bộc lộ nên các nỗ lực cải thiện môi trường thể chế kinh doanh cần tiếp tục được duy trì. Đặc biệt, dù có chậm trễ, Việt Nam nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu COVID–19.
Quí II mới là thời điểm nền kinh tế "thấm đòn" nặng nề
PGS.TS Phạm Thế Anh cũng dẫn bản báo cáo triển vọng kinh tế thế giới gần đây vào giữa tháng 4/2020, Quĩ Tiền tệ Quốc tế dự báo rằng kinh tế toàn cầu năm nay sẽ suy giảm khoảng 3%.
Kinh tế Việt Nam không đứng ngoài vòng xoáy tiêu cực. Tăng trưởng GDP quí 1/2020 so với cùng kì năm trước chỉ đạt 3,82%, thấp nhất trong vòng 11 năm qua.
Tuy nhiên, theo PGS.TS Phạm Thế Anh, những con số tăng trưởng này chưa phản ánh hết những khó khăn mà nền kinh tế đang phải trải qua khi nhiều đơn hàng xuất khẩu mới chỉ bắt đầu bị ảnh hưởng từ giữa tháng 3 hay các biện pháp giãn cách xã hội ở Việt Nam mới chỉ được thực hiện một cách chặt chẽ bắt đầu từ quí II.
"Đặc biệt, những con số tăng trưởng này cũng không phản ánh được những khó khăn thực sự của khu vực phi chính thức vốn hầu như không được phản ánh trong thống kê GDP", chuyên gia Phạm Thế Anh nói.
PGS.TS Phạm Thế Anh cũng cho biết, khu vực dịch vụ chịu tác động nặng nề nhất của việc phong tỏa biên giới và giãn cách xã hội. Một số ngành có mức tăng trưởng âm ngay trong quí I bao gồm ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống (–11,0%), hành chính và dịch vụ hỗ trợ (–3,5%), vận tải, kho bãi (–0,9%).
Những ngành này được dự kiến tiếp tục giảm mạnh trong quí II khi các biện pháp phòng chống bệnh dịch ngày càng mạnh mẽ hơn được áp dụng kể từ giữa Tháng Ba. Trong khi đó, nhiều ngành mặc dù vẫn có mức tăng trưởng dương trong quí I nhưng dự kiến sẽ chịu tác động xấu hơn trong quí II như nghệ thuật, vui chơi & giải trí hay kinh doanh bất động sản.
Về khu vực nông, lâm, ngư nghiệp, ông Anh dự báo, tác động xấu nhất của COVID–19 sẽ rơi vào qúi II với mức suy giảm từ 2 – 3%.
Một rủi ro rất lớn của nền kinh tế được ông Phạm Thế Anh đề cập tới, đó là hụt thu ngân sách. Tổng thu ngân sách năm nay nhiều khả năng sẽ không đạt kế hoạch đề ra do sự sụt giảm thu nhập và thắt chặt chi tiêu của cả doanh nghiệp lẫn người lao động.
Trong khi đó, tổng chi ngân sách lại có nguy cơ vượt dự toán do các khoản chi tiêu phát sinh nhằm giảm thiểu tác động của bệnh dịch. Bộ Tài chính ước tính, thu ngân sách năm nay sẽ giảm khoảng 140–150 nghìn tỉ đồng, làm tăng thâm hụt ngân sách lên mức 5–5,1% GDP.