Nhà đầu tư cần biết: Phân tích các hành vi trên thị trường chứng khoán thông qua sự biến động của khối lượng (phần 2)
(Tiếp tục)
Dưới đây là một số loại khối lượng được áp dụng khi nhà đầu tư phân tích.
Khối lượng thể hiện tính thanh khoản
Nếu một sản phẩm dễ dàng được trao đổi trên một thị trường nhất định (khối lượng giao dịch lớn) điều đó có nghĩa là sản phẩm đó có tính thương mại rất cao. Đồng thời cho thấy, thị trường đó là một thị trường giao dịch tốt đối với sản phẩm đó.
Khối lượng giao dịch là chỉ số trung thực và đáng tin cậy về tính thanh khoản của thị trường trong giao dịch. Một thị trường không thuận lợi cho các giao dịch thương mại sẽ không tồn tại lâu. Nếu trong một giao dịch với khối lượng thấp, tỉ lệ giao dịch nhanh với giá cao thì đó không phải là giá bán tốt nhất.
Ngược lại, trong một phiên giao dịch với khối lượng lớn, giá giao dịch biến động xảy ra trong một phạm vi hẹp và nhanh, thì việc bán được ở giá cao lại là giá tốt nhất. Khi một giao dịch được diễn ra với khối lượng lớn ở một mức giá hợp lí thể hiện tính thanh khoản cao của thị trường.
Đây cũng là lí do tại sao trong tiêu chuẩn mua – bán cổ phiếu của các quĩ đều có chỉ tiêu tính thanh khoản của cổ phiếu.
Khối lượng xác minh sự thật
Nếu giá là sự thật, khối lượng là công cụ xác thực nhất của giá. Điều mà các tổ chức lớn mong muốn làm sao khi mua hoặc bán mà không gây sự chú ý hay thu hút sự chú ý của những NĐT trên thị trường.
Tuy nhiên, thực tế là không bao giờ có thể che dấu được điều này. Bởi vì người khổng lồ bao giờ cũng để lại những dấu chân. Các tổ chức lớn phải lựa chọn các cổ phiếu để tránh ảnh hưởng xấu đến giá từ hoạt động giao dịch của chính họ. Và sau khi cổ phiếu được chọn để mua (hoặc thanh lí) được hoàn thành thì phải chú ý: Nếu đưa ra lời khuyên, sẽ làm cho những NĐT tiến hành giao dịch, nghĩa là mua hoặc bán sớm đón "sóng" và đó là sóng của giao dịch lớn sắp tới.
Một cách để che giấu một giao dịch lớn là mua/bán theo phương thức đấu giá hoặc thỏa thuận với giá bán công khai tại thời điểm đó. Nhưng khi phân tích khối lượng sẽ nhìn thấy thủ thuật đó, vì khi có một giao dịch phát sinh phải được ghi nhận.
Sự gia tăng đáng kể về khối lượng là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy một tổ chức lớn đang tham gia vào giao dịch, làm giá bị thay đổi nếu chuyển động giá phá vỡ cân bằng.
Các bước mua – bán gom hàng của các nhà đầu tư lớn thể hiện rõ trên đồ thị thông qua khối lượng (giai đoạn từ tháng 7/2018 – 7/2019)
Khối lượng cho thấy sự khác biệt của ý kiến của NĐT
Khối lượng có thể chứng minh cho các NĐT hiểu biết khi có sự chênh lệch về ý kiến. Thông thường, các thông tin và bình luận trên các phương tiện truyền thông có tính dẫn dắt công chúng đầu tư chọn, bất kể đó là các sự kiện cơ bản (hoặc khi không có thông tin rõ ràng).
Khối lượng giao dịch là bằng chứng cho thấy những ý kiến phân hóa đang diễn ra, với mỗi bên đặt cược vào niềm tin của chính mình. Sự phân hóa về ý kiến càng lớn thì lợi nhuận mà mỗi bên mong đợi nhận được từ một khoản đầu tư càng lớn.
Do đó, một sự khác biệt lớn trong những niềm tin này cho thấy khối lượng cao hơn khi những con bò và gấu chiếm vị trí để cố gắng kiếm lợi nhuận. Ngược lại, khối lượng thấp có thể biểu thị trạng thái cân bằng giữa cung và cầu, một sự đồng thuận rằng giá là đúng vào thời điểm đó.
Khối lượng là lực đẩy của thị trường
Để một động cơ tăng giá, thị trường cần có "nhiên liệu" được cung cấp bởi nguồn cung mới (bán) và nhu cầu mới (mua). Khối lượng giao dịch chính là thước đo tổng cung và cầu do những người tham gia thị trường tạo ra.
Ở một góc độ khác, khối lượng có thể hiểu là nhiên liệu của giá cổ phiếu. Khối lượng giao dịch càng lớn thì giá cổ phiếu đi càng xa.
Khối lượng là nguyên nhân
Một NĐT rất thành công và cũng là một Giáo sư chuyên giảng dạy về chứng khoán đầu thế kỷ XX là Richard Wyckoff đã từng định nghĩa luật đầu tư của riêng mình. Một luật quan trọng đó là nguyên nhân và kết quả.
Luật nguyên nhân và kết quả này quy định rằng mức độ của một động thái của thị trường tỉ lệ thuận với mức độ của nguyên nhân. Chính là khi phân tích khối lượng thì khoảng cách giữa số lượng cổ phiếu được bán bởi người bán so với những người mua được đặt mua là nguyên nhân của sự thay đổi giá (nguyên nhân dẫn đến cung – cầu bị phá vỡ).
Cổ phiếu được tích lũy trong vòng 10 tháng, giá dao động từ trong biên độ hẹp: 1,6-2,0. Khối lượng cạn kiệt thể hiện sự tích lũy cao, Cổ phiếu từ tay các nhà đầu tư nhỏ lẻ đã được trao tay cho các nhà đầu tư lớn. Điều nay là nguyên nhân dẫn đến kết quả bứt phá của cổ phiếu trong thời gian ngắn
Khối lượng tăng vận tốc chuyển động của dòng tiền
Charles Dow – người sáng lập ra tạp chí Phố Wall khi đưa ra lí thuyết Dow có nhắc đến: Khối lượng thị trường là một lượng mà khi tăng lên có xu hướng tạo ra sự tăng tốc của hướng giá.
Charles Dow cho rằng một khối lượng giao dịch cao cho thấy một mức giá chính xác hơn và ngược lại, khối lượng thực sự xác nhận giá. Nói tóm lại, Dow cảm thấy rằng sự gia tăng đáng kể về khối lượng thường đi trước những biến động giá đáng kể (khối lượng biến động trước giá).
Điều này được thể hiện rõ trong phương pháp đường trung bình của Ông khi mà đường trung bình ngắn hạn cắt lên đường trung bình dài hạn.
Giá tăng, khối lượng tăng và ngược lại. Các đường trung bình ngắn hạn ở khối lượng và giá đều cắt lên đường dài hạn cho thấy sự tăng tốc của giá và khối lượng.