Nâng cao hiệu quả các Tổng công ty Phát điện - Bài 1: Đáp ứng nhu cầu cung ứng điện
Sau hơn 7 năm thành lập theo Quyết định ngày 01/6/2012 của Bộ Công Thương, các Tổng công ty Phát điện (GENCO) 1, 2 và 3 trực thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mà còn phát huy vai trò đáp ứng nhu cầu cung cấp điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nhà máy Thủy điện Đa Nhim. Ảnh: Mai Phương/BNEWS/TTXVN
Các GENCO này cũng đáp ứng mục tiêu góp phần đa dạng hóa hình thức đầu tư vào các công trình điện, từ đó gia tăng số lượng các nhà máy điện và thúc đẩy hình thành thị trường điện cạnh tranh.
Với 14 đơn vị thành viên trải dài từ Bắc đến Nam, EVNGENCO 2 đang quản lý và điều hành các nhà máy thủy điện, nhiệt điện than và nhiệt điện chạy dầu với tổng công suất lắp đạt 5.081 MW.
Bên cạnh đó, Tổng công ty còn đầu tư và quản lý vốn đầu tư tại 5 dự án năng lượng tái tạo có tổng công suất thiết kế khoảng 180 MW, với tổng mức đầu tư trên 7.000 tỷ đồng bằng nguồn tài trợ từ các tổ chức tài chính trong, ngoài nước và nguồn vốn đối ứng của đơn vị.
Kiểm tra việc vận hành tổ máy Thuỷ điện Pleikrông. Ảnh: Mai Phương/BNEWS/TTXVN
Từ năm 2016 đến nay, EVNGENCO 2 được đánh giá là một trong 3 GENCO thực hiện tốt nhất Kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm (2016-2020) của EVN, đạt 16/17 chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu đề ra.
Cụ thể, ông Trương Hoàng Vũ, Tổng Giám đốc EVNGENCO 2 cho biết, trong 3 năm 2016-2018, tổng sản lượng điện sản xuất của Tổng công ty đạt kế hoạch được giao và tăng trưởng dần qua các năm, đáp ứng nhu cầu cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với sản lượng điện sản xuất năm 2018 đạt hơn 17,1 tỷ kWh, tăng 6,6% so với năm thực hiện năm 2016.
Riêng trong quý 4/2018 do xảy ra hiện tượng El Nino, tần suất nước về các hồ thủy điện ở mức xấp xỉ 90-99% nên các hồ thuỷ điện khu vực miền Trung từ Quảng Trị, A Vương đến An Khê - KaNak không thể tích nước theo yêu cầu để phục vụ phát điện cho mùa khô năm 2019. Đây là khó khăn lớn nhất đối với Tổng công ty trong cuối năm 2018 và năm 2019.
Giám sát việc vận hành Nhà máy thủy điện Buôn Tua Srah. Ảnh: Mai Phương/BNEWS/TTXVN
Riêng 6 tháng đầu năm 2019, tình hình thủy văn tiếp tục diễn biến không khả quan với lưu lượng nước về thực tế ở hầu hết các hồ thủy điện của Tổng công ty quản lý tiếp tục kém hơn so với giá trị trung bình nhiều năm. Trước tình hình trên, các nhà máy thủy điện được EVNGENCO 2 khai thác hạn chế và giữ mực nước các hồ ở mức cao nhất có thể để đáp ứng nhu cầu sản xuất điện trong mùa khô 2019, bên cạnh đảm bảo mục tiêu cấp nước cho hạ du và thực hiện đúng quy định, quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa.
Do vậy, sản lượng điện ước thực hiện trong 6 tháng đầu năm nay của Tổng công ty chỉ đạt gần 8,3 tỷ kWh, bằng 47,22% kế hoạch năm và giảm 11,4% so với cùng kỳ 2018. Riêng các tổ máy phát điện chạy dầu của Công ty Nhiệt điện Cần Thơ được huy động theo yêu cầu của Điều độ, với sản lượng điện lũy kế đến hết ngày 13/6 vừa qua là hơn 177,9 triệu kWh.
Tuy nhiên, theo ông Trương Hoàng Vũ, nếu tình hình thủy văn diễn biến thuận lợi vào các tháng cuối năm, thì Tổng công ty sẽ hoàn thành kế hoạch sản lượng năm 2019 được giao và khi các hồ thủy điện tích đến mực nước dâng bình thường thì sẽ đáp ứng kế hoạch sản lượng năm 2020 được giao.
Cùng với chỉ tiêu về tài chính ngày càng cải thiện thì các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật - nâng cao hiệu quảvận hành ổn định, tin cậy của EVNGENCO 2 từ năm 2016 đến hết tháng 6/2019, đều đạt theo kế hoạch được giao và dự kiến Tổng công ty cũng sẽ đạt kế hoạch trong năm 2019-2020 đã đề ra cho bộ chỉ tiêu này.
Đối với EVNGENCO 3, sản lượng điện sản xuất của Công ty mẹ giai đoạn 2016-2018 trung bình đạt 30,28 tỷ kWh/năm, trong khi đó, sản lượng kế hoạch năm 2019 tăng 7,6% trong điều kiện không có thêm nguồn mới. Các nhà máy điện Phú Mỹ (nguồn phát điện chủ lực của Tổng công ty) giảm cạnh tranh khi cập nhật giá khí thị trường, cùng với khó khăn về cung ứng nhiên liệu than nên việc đảm bảo kế hoạch sản lượng điện các năm 2019-2020 của Tổng công ty gặp nhiều khó khăn.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, Tổng công ty đã đại tu lần đầu tố máy S1 Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2, thay mới Rotor HIP của máy S2 Nhà máy nhiệt điện Mông Dương 1 và các tổ máy của Nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ đảm bảo an toàn, chất lượng và tiến độ thực hiện, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu huy động của hệ thống điện trong các tháng cuối năm 2019, mùa khô năm 2020 và các năm tiếp theo.
Cùng với đó, Tổng công ty còn nghiên cứu, hợp tác với các tổ chức lớn chó uy tín trên thế giới để ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, nâng cấp thiết bị, hỗ trợ việc kiểm soát, duy trì vận hành tin cậy, ổn định và phục hồi, nâng cao công suất, hiệu suất các tổ máy phù hợp với điều kiện thực tế và chi phí hợp lý.
Ông Đinh Quốc Lâm, Tổng Giám đốc EVNGENCO 3 cho biết, trong năm 2018, Tổng công ty đã thực hiện các giải pháp nâng cao độ tin cậy vận hành các tổ máy nhiệt điện than để đảm bảo phương thức huy động của hệ thống điện. Đặc biệt, Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 đã sản xuất được hơn 4 tỷ kWh, tăng 3,17% so với sản lượng điện mùa khô được giao. Công ty Nhiệt điện Vĩnh Tân đã lắp đặt bổ sung cân than, thiết bị giám sát độ ẩm online ở các tuyến băng tải C2, C7A/B, lắp thước phá sóng, trang bị thêm cano để phục vụ mớn nước... nhằm kiểm soát nhiên liệu than đầu vào.
Ngoài ra, Tổng công ty còn thử nghiệm đốt than trộn theo mô hình công nghiệp và có khả năng đốt trộn nhiều loại than tại Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 với kết quả suất hao than giảm so với hiện hữu khoảng từ 20-25g/kWh, chất lượng tro xỉ được cải thiện, đặc biệt đảm bảo đạt các tiêu chuẩn liên quan về sử dụng tro xỉ làm vật liệu xây dựng.
Theo ông Lâm, 5 tháng đầu năm nay, các nhà máy điện của Công ty mẹ EVNGENCO 3 vận hành ổn định, tuy nhiên do tình hình cung cấp khí của Tổng công ty Khí Việt Nam (PVGAS) thiếu hụt, nhiên liệu than cấp của Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) không đảm bảo cho sản xuất điện nên sản lượng điện sản xuất của Tổng công ty chỉ đạt 40,9% kế hoạch được giao.
Trong 3 năm 2016- 2018, sản lượng điện sản xuất của Tổng công ty Phát điện 1 (EVNGENCO 1) cũng tăng trưởng mạnh qua từng năm, đáp ứng nhu cầu cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ông Nguyễn Tiến Khoa, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty cho biết, năm 2018, sản lượng điện sản xuất tăng trưởng 37% so với năm 2016 do quy mô sản xuất của Tổng công ty đã tăng từ 3.840 MW đến 5.685 MW. Riêng năm 2018, kế hoạch điện sản xuất của EVNGENCO1 chỉ thực hiện được hơn 32,4 tỷ kWh, đạt 94% kế hoạch. Trong đó, công ty mẹ đạt 90% và các công ty cổ phần đạt 105%.
Nguyên nhân chủ yếu là do sự cố cong trục tua bin S7 của Nhà máy nhiệt điện Uông Bí, làm độ khả dụng giảm 46% so với kế hoạch; Xuất hiện hiện tượng thiếu than cho sản xuất điện trong tháng cuối năm 2018 khiến Nhà máy nhiệt điện Quảng Ninh phải dừng hoạt động một số tổ máy và Nhiệt điện Nghi Sơn phải giảm công suất phát điện. Bên cạnh đó, các tổ máy nhiệt điện Duyên Hải 1 gặp sự cố kéo dài trong 6 tháng đầu năm 2018.
Như vậy, nhìn về tổng thể sau 3 năm thực hiện Kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 5 năm (2016- 2020), EVNGENCO1 chưa đạt chỉ tiêu về sản lượng điện sản xuất.
Theo ông Khoa, sau khi hoàn thành khắc phục xong sự cố tại tổ máy S7 Nhà máy nhiệt điện Uông Bí và các khiếm khuyết của các tổ máy tại Trung tâm Điện lực Duyên Hải đầu năm 2019, EVNGENCO 1 quyết tâm phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu về sản lượng điện sản xuất năm 2019 và năm 2020 đã được Tập đoàn giao.
Riêng trong 6 tháng đầu năm 2019, tình hình thủy văn diễn biến tương đối khả quan, lưu lượng nước về thực tế ở hầu hết các hồ thủy điện do Tổng công ty quản lý cơ bản đạt kế hoạch với tần suất 65%. Các đơn vị thủy điện thuộc EVNGENCO 1 đảm bảo thực hiện đúng quy định, quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa và mục tiêu cấp nước hạ du. Trong khi đó, các nhà máy nhiệt điện đã tăng cường quản lý kỹ thuật, nâng cao độ tin cậy vận hành và thực hiện các giải pháp tổng thể duy trì độ khả dụng, đảm bảo đủ nhiên liệu cho vận hành các tổ máy.
Do vậy, sản lượng điện ước thực hiện 6 tháng đầu năm 2019 của toàn EVNGENCO 1 đạt gần 19,5 tỷ kWh, tăng 2% so với kế hoạch 6 tháng mùa khô và đạt 52,4 % kế hoạch năm được giao.
”Với việc hoàn thành chỉ tiêu sản lượng 6 tháng mùa khô, cùng với việc chuẩn bị tốt việc cung ứng nhiên liệu, huy động tốt các tổ máy nhiệt điện và tình hình diễn biến thủy văn thuận lợi trong 6 tháng cuối năm, năm nay, Tổng công ty sẽ hoàn thành các chỉ tiêu sản lượng được giao”, ông Khoa khẳng định.
Đặc biệt, trong bối cảnh thực hiện các chỉ tiêu về độ tin cậy năm 2018 tại Nhà máy nhiệt điện Uông Bí, bằng các biện pháp tăng cường quản lý kỹ thuật, tổ máy 330 MW đã phát liên tục và số giờ vận hành là trên 7.100 giờ. Đây được coi là số giờ lớn nhất trong năm vận hành ghi nhận được đối với một tổ máy nhiệt điện. Đây cũng là cơ sở để Tổng công ty đúc rút kinh nghiệm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong điều hành sản xuất, qua đó đảm bảo duy trì độ huy động cho các tổ máy nhiệt điện tại EVNGENCO 1 phát được trung bình trên 7.000 giờ/năm.
Bài 2: Chuẩn bị các nguồn điện mới