Nắm hơn 90% cổ phần SCB, bà Trương Mỹ Lan chỉ đạo cho nhóm Vạn Thịnh Phát vay hơn 93% dư nợ của ngân hàng
Theo kết luận điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, bà Trương Mỹ Lan, Chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, đã có hành vi tham ô tài sản, chiếm đoạt của Ngân hàng SCB hơn 304.000 tỷ đồng, gây thiệt hại gần 130.000 tỷ đồng và vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng gây thiệt hại hơn 64.000 tỷ đồng.
Cụ thể, bà Trương Mỹ Lan, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, mặc dù không trực tiếp giữ chức vụ tại Ban quản trị, Ban điều hành Ngân hàng SCB, nhưng nắm giữ số lượng rất lớn, chiếm gần tuyệt đối cổ phần của Ngân hàng SCB (trên 90% số cổ phần) đã bố trí người thân tín của mình giữ các chức vụ chủ chốt.
Bà Lan đã nắm quyền điều hành, chi phối, chỉ đạo toàn bộ hoạt động của ngân hàng này, biến SCB trở thành công cụ tài chính để tổ chức huy động tiền gửi, chỉ đạo các đối tượng là lãnh đạo chủ chốt tại Ngân hàng SCB và tại hệ sinh thái Tập đoàn Vạn Thịnh Phát sử dụng hàng nghìn cá nhân, pháp nhân để lập hàng nghìn bộ hồ sơ “khống” đứng tên vay vốn tại đây.
Số tiền vay được bà Trương Mỹ Lan sử dụng trái mục đích, chiếm đoạt tiền sử dụng cá nhân; đối phó, che giấu hành vi phạm tội của mình và đồng bọn.
Cơ quan điều tra xác định hành vi phạm tội của bà Trương Mỹ Lan và đồng phạm là nguyên nhân căn bản, cốt yếu dẫn đến Ngân hàng SCB đã hoàn toàn mất thanh khoản, dư nợ tín dụng rất lớn không có khả năng thu hồi, vốn chủ sở hữu âm.
Nhờ 27 tổ chức, cá nhân đứng tên hộ, bà Trương Mỹ Lan nắm 96% cổ phần SCB
Kết luận điều tra cũng chỉ rõ quá trình bà Trương Mỹ Lan đã thực hiện thâu tóm, chi phối hoạt động Ngân hàng SCB.
Cụ thể, bà Trương Mỹ Lan đã thực hiện thâu tóm ba ngân hàng tư nhân (trước khi hợp nhất thành SCB) bằng việc mua, sở hữu phần lớn số lượng cổ phần của các ngân hàng này để thao túng hoạt động nhằm phục vụ cho mục đích cá nhân.
Trong đó, từ tháng 12/2011, bằng hình thức nhờ người đứng tên sở hữu cổ phần, bà Trương Mỹ Lan đã nắm giữ 81,43% cổ phần của Ngân hàng TMCP Sài Gòn (cũ) dưới tên của 32 cổ đông; 98,74% cổ phần của Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa dưới tên của 36 cổ đông và 80,46% cổ phần của Ngân hàng TMCP Đệ Nhất dưới tên của 24 cổ đông.
Sau khi ba ngân hàng này được hợp nhất vào ngày 1/1/2012 với tên gọi là Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), bà Trương Mỹ Lan tiếp tục nhờ 73 cổ đông đứng tên sở hữu 85,606% cổ phần của ngân hàng, đồng thời tiếp tục mua và sử dụng cá nhân đứng tên cổ phần để tăng tỷ lệ sở hữu lên 91,545% vào ngày 1/1/2018.
Tính đến tháng 10/2022, Ngân hàng SCB có vốn điều lệ hơn 15.231 tỷ đồng với tổng số 4.129 cổ đông, được Ngân hàng Nhà nước công nhận. Trong đó, bà Trương Mỹ Lan đã sở hữu, chi phối hơn 91,5% vốn điều lệ do 27 pháp nhân, cá nhân đứng tên giúp; bà Lan trực tiếp đứng tên sở hữu gần 75,9 triệu cổ phần, chiếm 4,982% vốn điều lệ.
Tài liệu điều tra xác định các cá nhân và đại diện các tổ chức này (trừ các pháp nhân nước ngoài đã liên hệ nhưng không đến làm việc) đều khai đứng tên cổ phần cho bà Trương Mỹ Lan.
93% dư nợ của SCB về tay nhóm bà Trương Mỹ Lan
Kết quả điều tra cho biết với việc sở hữu/nắm quyền chi phối số cổ phần Ngân hàng SCB nêu trên, bà Trương Mỹ Lan đã đưa người của mình hoặc sử dụng các cá nhân tin tưởng, thân tín để sử dụng những người này điều hành toàn bộ hoạt động của ngân hàng.
Các vị trí chủ chốt do bà Lan tuyển chọn đều là những người có trình độ, hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, nghe theo chỉ đạo của bà và được trả mức lương từ 200-500 triệu/tháng như: Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, Giám đốc các Chi nhánh lớn, Trưởng Ban kiểm soát.
Theo lời khai của các đối tượng nêu trên (trừ các đối tượng, bị can đã xuất cảnh, không biết hiện đang ở đâu) thì bà Trương Mỹ Lan chi phối mọi hoạt động của Ngân hàng SCB kể cả về nhân sự và hoạt động tín dụng thông qua các thân tín, giữ vai trò chủ chốt tại Ngân hàng SCB.
Bằng cách thâu tóm, nắm giữ cổ phần chi phối, điều hành hoạt động ngân hàng thông qua các đối tượng chủ chốt tại ngân hàng, bà Trương Mỹ Lan đã sử dụng SCB như một công cụ tài chính để huy động tiền gửi của người dân và các tổ chức, huy động vốn từ các nguồn khác.
Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay, SCB lại chủ yếu phục vụ cho mục đích cá nhân của bà Trương Mỹ Lan. 93% tổng dư nợ gốc tại SCB là các khoản vay của bà Lan và nhóm đối tượng có liên quan (do Tập đoàn Vạn Thịnh Phát thành lập, thuê hoặc nhờ người đứng tên).
Tính đến ngày 17/10/2022, nhóm đối tượng này còn 875 khách hàng (440 cá nhân, 435 tổ chức) vay 1.284 khoản (gồm 512 khoản vay khách hàng cá nhân và 772 khoản vay khách hàng tổ chức) với dư nợ 677.286 tỷ đồng, gồm 483.971 tỷ đồng nợ gốc và 193.315 tỷ đông nợ lãi/phí. Số dư nợ này đều thuộc nợ nhóm 5, không có khả năng thu hồi.
Hành vi nêu trên của bà Trương Mỹ Lan đã vi phạm khoản 1, Điều 7, khoản 2, Điều 55 Luật các tổ chức tín dụng 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017: Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài;...Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.
Hành vi của các đối tượng tại Ngân hàng SCB đã vi phạm quy định tại Điều 38, Luật các tổ chức tín dụng 2010, sửa đổi bổ sung năm 2017: Quyền, nghĩa vụ của người quản lý, người điều hành tổ chức tín dụng: 2. Thực hiện quyền, nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng, vì lợi ích của tồ chức tín dụng, cổ đông, thành viên góp vốn và chủ sở hữu tố chức tín dụng. 7. Không được tạo điều kiện để bản thân hoặc người có liên quan của mình vay vốn, sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác của tổ chức tín dụng với những điều kiện ưu đãi, thuận lợi hơn so với quy định chung của tổchức tín dụng.
Ngoài hành vi phạm tội trong việc thao túng, chi phối hoạt động để chiếm đoạt tiền của Ngân hàng SCB, bà Trương Mỹ Lan còn có hành vi mua chuộc, đối phó, che giấu các cơ quan quản lý nhà nước.