|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Doanh nghiệp

Lộ diện 2 tổ chức đầu tư hơn 1.000 tỷ đồng vào Vietjet Air

07:11 | 03/02/2017
Chia sẻ
Quỹ VEIL do Dragon Capital quản lý đã đầu tư khoảng 980 tỷ đồng tính đến ngày 19/01/2017 và Công ty Chứng khoán HSC đã đầu tư 134,5 tỷ đồng vào Vietjet Air tính đến ngày 31/12/2016.

Theo báo cáo cập nhật mới nhất của Quỹ Vietnam Enterprise Investments Limited (VEIL) được quản lý bởi Dragon Capital, tính đến ngày 19/1/2017, VEIL đã đầu tư 4,26% giá trị tài sản ròng (NAV) của quỹ vào CTCP Hàng không Vietjet (Vietjet). Tại ngày 19/01/2017, NAV của quỹ là 1.014 triệu USD, điều này đồng nghĩa Quỹ VEIL đã đầu tư gần 43,2 triệu USD, tương đương khoảng 980 tỷ đồng vào Vietjet.

lo dien 2 to chuc dau tu hon 1000 ty dong vao vietjet air
Top 10 khoản đầu tư lớn nhất trong danh mục đầu tư của VEIL tại ngày 19/01/2017. Nguồn: Báo cáo cập nhật của VEIL

Ngoài VEIL, mới đây thuyết minh báo cáo tài chính của CTCP Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh – HSC (mã HCM) cho biết HSC đã đầu tư 134,5 tỷ đồng vào Vietjet, tính đến hết ngày 31/12/2016.

Trước đó, nguồn tin BizLIVE cho biết, bà Nguyễn Thị Phương Thảo - Tổng giám đốc Vietjet Air sẽ bán ra gần 44,8 triệu cổ phần Vietjet Air cho các tổ chức quốc tế với giá chào bán 84.600 đồng/cổ phần. Sau đó bà Thảo thông qua Công ty TNHH Đầu tư Hướng Dương Sunny sẽ mua gần 22,4 triệu cổ phần mới phát hành thêm của Vietjet Air.

Với mức giá chào bán 44,8 triệu cổ phiếu của bà Nguyễn Thị Phương Thảo cho các tổ chức như đã công bố trong tài liệu chào bán trước đó là 84.600 đồng/cổ phần, ước tính VEIL đang sở hữu khoảng 11,6 triệu cổ phần Vietjet và HSC đang sở hữu gần 1,6 triệu cổ phần Vietjet. Và số lượng cổ phiếu Vietjet mà VEIL đã mua vào bằng khoảng 50% lượng cổ phần Vietjet Air phát hành thêm cho Đầu tư Hướng Dương Sunny.

Hồng Quân

Quốc hội đề nghị làm rõ thu thuế sàn TMĐT, cơ sở thường trú 'ảo'  nước ngoài bằng cách nào?
Trước đề xuất thu thuế thu nhập doanh nghiệp với sàn thương mại điện tử, cơ sở thường trú 'ảo' của doanh nghiệp nước ngoài, Cơ quan thẩm tra đề nghị làm rõ tính khả thi về phương thức thu thuế và những Hiệp định pháp lý có liên quan.