ICO: Xuất khẩu cà phê arabica sụt giảm trong khi robusta tăng tốc
Giá cà phê arabica tiếp tục tăng
Theo báo cáo mới nhất của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), năm 2021 chứng kiến sự gia mạnh mẽ của giá cà phê thế giới với mức giá trung bình đạt được là 152,2 US cent/lb, tăng 41% so với 107,9 US cent/lb của năm 2020.
Bước sang tháng 1/2022, giá cà phê thế giới tiếp tục tăng nhẹ 0,6% so với tháng trước lên mức 204,3 US cent/lb. Đánh dấu mức tăng trưởng trong 16 tháng liên tiếp của chỉ số giá cà phê toàn cầu.
ICO cho biết, giá cà phê ổn định vào thời điểm hiện tại với trên ngưỡng 200 US cent/lb do được hỗ trợ bởi thông tin tồn kho được chứng nhận trên các sàn giao dịch cà phê tiếp tục giảm trong tháng 1, với sàn New York giảm 16,2% và London giảm 5,4%.
Trong tháng vừa qua, nhóm cà phê arabia Colombia và nhóm arabica Brazil ghi nhận mức tăng giá mạnh nhất, tăng 1,5% so với tháng trước lên 294,9 US cent/lb và 233,8 US cent/lb. Ngoài ra, giá của nhóm cà phê arabica khác cũng tăng 1,3% lên 271,1 US cent/lb.
Trong khi đó, giá cà phê robusta quay đầu giảm 2,7% trong tháng vừa qua, xuống còn 109,7 US cent/lb.
Do đó, chênh lệch giá giữa cà phê arabica và robusta trên thị trường kỳ hạn New York và London tăng 3,9% lên 135,07 US cent/lb.
Chênh lệch giá cà phê arabica và robusta giữa sàn giao dịch New York và London tiếp tục được nới rộng khi nhu cầu đối với cà phê arabica cao hơn nguồn cung. Xu hướng này phản ánh các vấn đề về chuỗi cung ứng và sản lượng vụ mùa 2021 - 2022 sụt giảm tại Brazil và Colombia.
Chỉ số giá cà phê hàng ngày được theo dõi bởi ICO
Nguồn: ICO
Xuất khẩu cà phê arabica sụt giảm, robusta tăng tốc
Theo ICO, trong tháng 12/2021, xuất khẩu cà phê toàn cầu đạt 12,1 triệu bao (loại 60 kg/bao), tăng 8,9% so với 11,1 triệu bao vào tháng 12/2020.
Tuy nhiên, lũy kế trong 3 tháng đầu niên vụ cà phê 2021 - 2022 (tháng 10 đến tháng 12/2021), xuất khẩu cà phê toàn cầu đã giảm nhẹ 1,6% so với cùng kỳ niên vụ trước, xuống mức 31,3 triệu bao.
Trong tháng 12, xuất khẩu cà phê toàn cầu tăng chủ yếu là do lượng cà phê xuất khẩu của khu vực châu Á và châu Đại Dương tăng 37,4% so với tháng 12/2020, lên mức 4,7 triệu bao. Qua đó đưa tổng xuất khẩu cà phê của khu vực này trong quý đầu tiên của niên vụ 2021 - 2022 lên 11 triệu bao, tăng so với 8,5 triệu bao của cùng kỳ niên vụ trước.
Trong đó, 3 nhà xuất khẩu lớn nhất khu vực này là Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam đóng góp 50,8% mức tăng trưởng tuyệt đối trong quý đầu tiên với khối lượng xuất khẩu của 3 nước trên cộng lại đã tăng thêm 1,3 triệu bao, lên 10,6 triệu bao so với 8,1 triệu bao trong quý I niên vụ 2020 - 2021.
Trong khi đó, xuất khẩu của khu vực Nam Mỹ giảm mạnh 19,2% trong quý đầu tiên của niên vụ 2021-2022, xuống còn 15,3 triệu bao từ mức 18,9 triệu bao của cùng kỳ niên vụ trước.
Xuất khẩu từ 2 nhà sản xuất lớn nhất trong khu vực này là Brazil và Colombia giảm lần lượt là 25,8% và 8,4% trong quý đầu tiên của niên vụ cà phê hiện tại, xuống còn 10,2 triệu bao và 3,3 triệu bao. Trái lại, xuất khẩu cà phê của 3 quốc gia Bolivia, Ecuador và Peru tăng lên 1,8 triệu bao so với 1,6 triệu bao của cùng kỳ niên vụ trước.
Xuất khẩu cà phê của khu vực Trung Mỹ và Mexico trong quý đầu tiên của niên vụ 2021 - 2022 đạt 1,8 triệu bao, tăng so với 1,4 triệu bao của cùng kỳ niên vụ 2020 - 2021. Guatemala, Honduras, Mexico và Nicaragua là những quốc gia ghi nhận mức tăng trưởng xuất khẩu trong khu vực, chiếm 91,9% tổng khối lượng tăng thêm.
Tương tự, xuất khẩu của châu Phi tăng lên 3,2 triệu bao trong quý đầu tiên của niên vụ cà phê 2021-2022, tăng so với 3 triệu bao so với quý đầu tiên của niên vụ 2020-2021. Hai nhà xuất khẩu lớn nhất trong khu vực, Ethiopia và Uganda là hai động lực chính của sự gia tăng này với xuất khẩu đạt lần lượt là 0,9 triệu bao và 1,6 triệu bao.
Xuất khẩu cà phê của các khu vực trong 3 tháng đầu niên vụ 2021 - 2022 (tháng 10 đến tháng 12/2021)
Nguồn: ICO
Về chủng loại cà phê xuất khẩu, lượng cà phê arabica xuất khẩu trong tháng 12 ghi nhận mức giảm 2,8%, xuống còn 6,4 triệu bao từ 6,5 triệu bao của tháng 12/2020. Trong đó, cà phê arabica Colombia và arabica Brazil giảm 15,2% và 8,0%, đạt lần lượt 1,2 triệu bao và 3,6 triệu bao; trong khi nhóm cà phê arabica khác tăng 27,7% lên 1,6 triệu bao.
Ở chiều ngược lại, các lô hàng cà phê Robusta xuất khẩu đã tăng mạnh 25,1% trong tháng 12, lên 4,2 triệu bao so với 3,4 triệu bao cùng kỳ năm trước.
Do đó, thị phần cà phê robusta trong tổng xuất khẩu hạt cà phê đã tăng lên mức 37,5% trong 3 tháng đầu niên vụ cà phê 2021 - 2022 so với 32,1% cùng kỳ niên vụ trước. Điều này cho thấy thị trường đang có một sự tái cân bằng về nguồn cung để bù đắp cho sự tăng giá và thiếu hụt của cà phê arabica.
Xuất khẩu cà phê xanh toàn cầu trong 3 tháng đầu niên vụ 2021 - 2022 (tháng 10 đến tháng 12/2021)
Nguồn: ICO
Trong 3 tháng đầu niên vụ cà phê 2021 - 2022, xuất khẩu cà phê nhân toàn cầu đạt 27,5 triệu bao, giảm 3,8% so với mức 28,6 triệu bao của cùng kỳ niên vụ trước. Đây là sự tiếp nối của xu hướng giảm xuất khẩu cà phê nhân kể từ niên vụ cà phê 2010 - 2011 đến 2020 - 2021, trong giai đoạn này tỷ trọng của cà phê nhân đã giảm từ 92% xuống 90,6% trong tổng xuất khẩu toàn cầu.
Việc giảm tỷ trọng này là do sự gia tăng của các lô hàng cà phê hòa tan xuất khẩu, làm tăng tỷ trọng của cà phê hòa tan trong tổng xuất khẩu từ 7,8% lên 8,8%.
Tiêu thụ cà phê toàn cầu đang phục hồi
Cũng trong báo cáo của ICO, cơ quan này điều chỉnh ước tính tổng sản lượng cà phê thế giới trong niên vụ 2020 - 2021 giảm nhẹ xuống 168,9 triệu bao, giảm 0,1% so với 169 triệu bao của niên vụ 2019 - 2020.
Trong đó, sản lượng cà phê arabica đạt 99,3 triệu bao, tăng 2,2% từ 97,1 triệu bao trong niên vụ 2019 - 2020; trong khi sản lượng robusta ước tính đạt 69,6 triệu bao, giảm so với 71,9 triệu bao của niên vụ trước.
Đồng thời, tiêu thụ cà phê thế giới được ICO điều chỉnh tăng lên 167,7 triệu bao trong niên vụ 2020 - 2021 vừa qua , tăng 1,9% (tương ứng tăng 3,1 triệu bao) so với 164,6 triệu bao của niên vụ 2019 - 2020. Tuy nhiên, mức tiêu thụ này vẫn thấp hơn so với 170,3 triệu bao trước đại dịch.
Chênh lệch giữa sản xuất và tiêu thụ cà phê trong niên vụ 2020 - 2021 thu hẹp xuống còn 1,2 triệu bao, thấp hơn đáng kể so với mức 2 triệu bao trước đại dịch.