|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Giá tiêu hôm nay 3/11: Giảm 2.000 – 2.500 đồng/kg trong tuần qua

06:57 | 03/11/2024
Chia sẻ
Giá tiêu hôm nay (3/11) dao động ở mức 140.000 – 141.000 đồng/kg, giảm 2.000 – 2.500 đồng/kg trong tuần qua. Chỉ trong 10 tháng qua, các doanh nghiệp chi ra 108 triệu USD để nhập khẩu hạt tiêu, tăng mạnh 38,2%.

Cập nhật giá tiêu

Tại thị trường trong nước

Xem thêm: Giá tiêu hôm nay 2/11

Giá tiêu hôm nay 3/11 giảm nhẹ 200 đồng/kg tại tỉnh Đắk Nông và ổn định tại các địa phương khác.

Tính chung trong tuần qua, giá tiêu trong nước giảm 2.000 – 2.500 đồng/kg, dao động 140.000 – 141.000 đồng/kg.

Trong đó, giá tiêu tại hai tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk giảm 2.500 đồng/kg trong tuần, xuống còn 141.000 đồng/kg.

Tương tự, giá tiêu tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và tỉnh Đồng Nai đang được giao dịch ở mốc 141.000 đồng/kg, giảm 2.000 đồng/kg.

Giá tiêu tại hai tỉnh Gia Lai và Bình Phước cũng giảm 2.000 đồng/kg, xuống còn 140.000 đồng/kg.

Thị trường tiếp tục chịu áp lực khi nhu cầu chậm lại, trong khi người bán tìm cách huy động vốn để đầu tư vào cà phê, loại nông sản đang trong mùa thu hoạch. Mặc dù vậy, nguồn cung hạn chế giúp cho giá tiêu vẫn đang cao hơn khoảng 72 – 76% so với đầu năm và gấp đôi cùng kỳ năm ngoái.

Tỉnh/huyện

(khu vực khảo sát)

Giá thu mua 3/11

(Đơn vị: VNĐ/kg)

Thay đổi so với hôm trước (Đơn vị: VNĐ/kg)

Thay đổi so với đầu tuần (Đơn vị: VNĐ/kg)

Đắk Lắk

141.000

-

-2.500

Gia Lai

140.000

-

-2.000

Đắk Nông

141.000

-200

-2.500

Bà Rịa - Vũng Tàu

141.000

-

-2.000

Bình Phước

140.000

-

-2.000

Đồng Nai

141.000

-

-2.000

 

Nguồn: Hoàng Hiệp tổng hợp từ giatieu.com

Trên thị trường thế giới

Cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC), trong tuần qua, giá tiêu thế giới khá ổn định và chỉ giảm duy nhất tại Indonesia.

Cụ thể, giá tiêu đen Lampung Indonesia đang được niêm yết ở mức 6.683 USD/tấn, giảm 0,6% trong tuần qua.

Trong khi đó, giá tiêu tại các nhà cung cấp khác tiếp tục ổn định. Cụ thể, tiêu đen Kuching Malaysia có giá 8.500 USD/tấn, tiêu đen Brazil ASTA 570 được giao dịch ở mức 6.400 USD/tấn.

Tiêu đen 500 g/l và 550 g/l xuất khẩu của Việt Nam được chào bán với giá 6.500 - 6.800 USD/tấn.

Tên loại

Bảng giá tiêu đen thế giới

Ngày 3/11 (ĐVT: USD/tấn)

% thay đổi so với đầu tuần

Tiêu đen Lampung (Indonesia)

6.683

-0,6

Tiêu đen Brazil ASTA 570

6.400

0,0

Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA

8.500

0,0

Tiêu đen Việt Nam (500 g/l)

6.500

0,0

Tiêu đen Việt Nam (500 g/l)

6.800

0,0

Cùng thời điểm khảo sát, giá tiêu trắng Muntok Indonesia giảm 0,6% trong tuần qua, xuống còn 9.150 USD/tấn.

Giá tiêu trắng Việt Nam và Malaysia tiếp tục đi ngang ở mức 9.500 USD/tấn và 11.000 USD/tấn.

Tên loại

Bảng giá tiêu trắng thế giới

Ngày 3/11 (ĐVT: USD/tấn)

% thay đổi so với đầu tuần

Tiêu trắng Muntok Indonesia

9.150

-0,6

Tiêu trắng Malaysia ASTA

11.000

0,0

Tiêu trắng Việt Nam

9.500

0,0

Cập nhật thông tin hồ tiêu

Theo số liệu thống kê sơ bộ, chỉ trong 10 tháng qua, các doanh nghiệp chi ra 108 triệu USD (tương đương 2.700 tỷ đồng) để nhập khẩu hạt tiêu. So với cùng kỳ năm ngoái, nhập khẩu mặt hàng này tăng mạnh 38,2%.

Trong đó, các doanh nghiệp chủ yếu nhập khẩu hạt tiêu từ Brazil, Indonesia và Campuchia.

Ông Phan Minh Thông - Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Phúc Sinh, cho rằng ngành hồ tiêu Việt Nam đang được hưởng lợi nhờ giá xuất khẩu ở mức cao do nguồn cung hạn chế.

Theo đó, năm nay nông dân trồng tiêu được hưởng lợi nhờ giá bán tăng quá cao. Ngược lại, doanh nghiệp xuất khẩu lại không mua được nhiều tiêu trong nước. Đây cũng là một phần lý do Phúc Sinh đã phải nhập khẩu hồ tiêu rất nhiều từ Brazil và Indonesia trong năm nay.

Nguyên nhân là bởi, sản lượng giảm, bà con giữ hạt tiêu lại đầu cơ. Cùng với đó, tình trạng hạn hán kéo dài khiến nguồn cung hồ tiêu trong nước ngày càng khó khăn.

Ở chiều ngược lại, Bộ NNN-PTNT cho biết, trong 10 tháng năm 2024, Việt Nam xuất khẩu khoảng 220,3 nghìn tấn hạt tiêu, giá trị ước đạt 1,12 tỷ USD. Tuy khối lượng hạt tiêu xuất khẩu giảm 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng giá trị lại tăng mạnh 48,2%.

Giá hạt tiêu xuất khẩu bình quân 10 tháng năm 2024 ước đạt 5.084 USD/tấn, tăng 51,7% so với cùng kỳ năm 2023.

Về thị trường, Mỹ, Đức và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) là 3 khách hàng lớn nhất, chiếm 44,2% giá trị xuất khẩu “vàng đen” của nước ta trong 9 tháng năm 2024. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường Đức tăng gấp 2,4 lần so với cùng kỳ năm ngoái, theo vietnamnet.

Hoàng Hiệp