|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Doanh nghiệp

Doanh nghiệp vay không tính lãi trả lương công nhân: Theo tiêu chí nào?

08:19 | 02/04/2020
Chia sẻ
Chính phủ đã cơ bản đồng ý với đề xuất của Bộ LĐ-TB&XH về gói hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp (DN) và người lao động (NLĐ) gặp khó khăn, mất việc làm do ảnh hưởng của dịch COVID-19. Bộ LĐ-TB&XH đã xây dựng các phương án, điều kiện để DN và NLĐ được nhận hỗ trợ.

DN nào được vay?

Theo phương án dự kiến của Bộ LĐ-TB&XH, DN gặp khó khăn do dịch COVID-19 sẽ được vay không lãi suất tiền trả lương, tiền đóng Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cho NLĐ phải tạm thời mất việc (lãi suất khoản vay do ngân sách nhà nước hỗ trợ chi trả). Khoản vay này được áp dụng với DN có từ 30% LĐ và từ 100 LĐ trở lên, phải luân phiên nghỉ việc cộng dồn từ 1 tháng trở lên, DN mất khả năng thanh toán các khoản trên cho NLĐ.

Thời gian hỗ trợ theo thực tế ngừng việc, từ 1 tháng trở lên nhưng tối đa không qúa 3 tháng trong năm 2020. Bộ này tính toán, sẽ có khoảng 250 - 500 nghìn LĐ ngừng việc cần hỗ trợ; với tổng số tiền cho DN vay từ 5,9 đến 11,8 nghìn tỷ đồng, tương ứng phần ngân sách hỗ trợ trả lãi suất 355 - 710 tỷ đồng (mức lãi suất tính là 6%/năm). Trường hợp dịch diễn biến xấu hơn, việc hỗ trợ có thể phải kéo dài tới 6 tháng, số LĐ bị ảnh hưởng có thể tăng lên 2,5 - 5 triệu người, số tiền cho DN vay sẽ tăng từ 55 - 111 nghìn tỷ đồng.

Với DN phải giải thể, phá sản do ảnh hưởng của dịch bệnh, DN được vay để chi trả chế độ mất việc cho NLĐ. Bộ LĐ-TB&XH đưa ra phương án, ngân sách địa phương tạm ứng cho DN vay để chi trả cho NLĐ trước, sau đó thu hồi từ tiền thanh lý tài sản DN. Dự kiến, có khoảng 55 - 110 nghìn LĐ thuộc diện này, với tổng kinh phí hỗ trợ 236 - 1.000 tỷ đồng. Thời gian áp dụng dự kiến từ tháng 4 tới hết năm 2020.

DN gặp khó khăn do dịch bệnh,  phải cho NLĐ nghỉ việc, được vay vốn không lãi suất để trả tiền trợ cấp thôi việc, hoặc trợ cấp mất việc làm. Theo Bộ LĐ-TB&XH, hiện có khoảng 10% DN phải cắt giảm LĐ, nếu dịch kéo dài, con số này có thể tăng lên hơn 25%. Bộ này lên phương án, với khoản DN vay để trợ cấp thôi việc, DN khi có số LĐ bị thôi việc từ 10%/tổng số LĐ trở lên và có từ 50 LĐ trở lên thôi việc; sau khi DN huy động các nguồn vẫn không có khả năng thanh toán cho NLĐ.

Thời gian hỗ trợ dự kiến từ tháng 4 tới hết năm 2020. Bộ LĐ tính toán, số LĐ bị thôi việc từ 80 - 160 nghìn người, tương ứng số tiền trợ cấp thôi việc từ 780 - 1.560 tỷ đồng; số tiền ngân sách chi hỗ trợ lãi suất tương ứng từ 46- 93 tỷ đồng.

Xử lý nhanh nhưng phải đúng đối tượng

Chiều 1/4, trao đổi với PV Tiền Phong, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME) Tô Hoài Nam đánh giá: Các giải pháp hỗ trợ DN và NLĐ của Chính phủ đưa ra rất kịp thời, dù ngân sách nhà nước còn khó khăn. Điều quan trọng cần triển khai ngay vì DN và NLĐ đang rất khó khăn.

Đi liền với đó cũng cần cho vay đúng đối tượng, công tâm để phát huy ý nghĩa và không bị trục lợi chính sách. Theo ông Nam, với DN sẽ không khó để xác định đối tượng được vay, vì hầu hết đều có lịch sử tín dụng với ngân hàng, có quan hệ lao động, đóng BHXH rõ ràng, có thể lấy đó làm căn cứ xét cho vay.

Tuy vậy, các tổ chức tín dụng cần sớm đưa ra tiêu chí, điều kiện với từng loại hình kinh doanh, như DN bất động sản cần điều kiện gì, DN sản xuất hàng phụ trợ cần điều kiện ra sao, để DN chuẩn bị hồ sơ. Ngoài ra, vị này đề xuất, các tổ chức tín dụng có thể phối hợp với các hiệp hội ngành nghề để thẩm tra, xác định DN đủ điều kiện được vay ưu đãi.

Ông Nam cho biết, cảm thấy khó nhất là với khoản hỗ trợ NLĐ không có hợp đồng, không tham gia BHXH, làm việc công việc tự do; họ là những lao động yếu thế, người nghèo, chịu tổn thương lớn nhất do dịch bệnh, nhưng khó tìm cơ sở để xác định. “Với nhóm đối tượng cuối này cần sự vào cuộc công tâm của chính quyền các cấp, ngành LĐ-TB&XH, hộ kinh doanh cá thể… mới giải quyết được”, ông Nam đề xuất.

Ông Lê Đình Quảng, Phó Ban Quan hệ Lao động (Tổng Liên đoàn LĐ Việt Nam) cũng cho rằng, việc xác định DN và NLĐ có hợp đồng được vay ưu đãi không khó, có thể thông qua hợp đồng LĐ, dữ liệu BHXH, dữ liệu nộp thuế… Tuy vậy, điều ông Quảng băn khoăn là với NLĐ không có hợp đồng. Trên thực tế, có nhiều DN sử dụng LĐ nhưng không ký hợp đồng, kể cả thường xuyên và thời vụ, đây cũng là đối tượng bị mất việc làm trước tiên. Tuy nhiên, do họ không có hợp đồng, không đóng BHXH, nên rất khó xác định.

Với nhóm đối tượng này, ông Quảng đề xuất chính quyền địa phương, DN, ngân hàng phối hợp để có hướng xử lý. Với nhóm lao động tự do (như bán hàng rong, nhận việc theo ngày…), theo ông Quảng, cần dựa vào xác minh của chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội nơi người lao động sinh sống.

Lê Hữu Việt