|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm: Nhiều yếu tố gây áp lực lên lạm phát

04:45 | 14/05/2022
Chia sẻ
Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu.

Kinh tế Việt Nam có đặc điểm khi giá nguyên vật liệu tăng 1% thì giá sản phẩm đầu ra tăng 2,06%, đồng nghĩa với gia tăng lạm phát của nền kinh tế. Do đó, rủi ro nhập khẩu lạm phát là không thể tránh khỏi trong bối cảnh các nền kinh tế là đối tác thương mại lớn, quan trọng hàng đầu của Việt Nam như: Mỹ, EU, Hàn Quốc... đều dự báo lạm phát ở mức đáng lo ngại. 

Chế biến sản phẩm tôm xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta (Sóc Trăng). Ảnh minh họa: TTXVN

Để hiểu rõ hơn đâu là yếu tố gây áp lực lạm phát đối với kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, phóng viên TTXVN đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Bích Lâm xung quanh nội dung này.

Thưa ông, đâu là yếu tố gây áp lực lạm phát đối với kinh tế Việt Nam trong thời gian tới?

Trước tiên, tôi muốn đề cập đến lạm phát chuỗi cung ứng là nhóm yếu tố tạo áp lực lớn nhất đến lạm phát của nền kinh tế trong thời gian tới.

Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài, với tỷ lệ 37% chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế; tỷ lệ này trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo - ngành có vai trò là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế chiếm 50,98%.

Cùng với đó, đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch gây ra chưa được khắc phục thì khủng hoảng Nga-Ukraine kéo theo các biện pháp trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga được mô tả là “mối nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu” đối với nhiều quốc gia càng làm trầm trọng hơn tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng, thiếu hụt nguồn cung của nền kinh tế, là một trong những nguyên nhân chính làm giá hàng hoá trên thị trường thế giới tăng cao.

Sản lượng sản xuất và thị phần xuất khẩu một số mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng như xăng dầu, khí đốt, lúa mì, nhôm, nickel, ngô, phân bón… của Nga và Ukraine rất lớn, vì vậy nếu căng thẳng kéo dài sẽ gây khó khăn về nguồn cung các loại nguyên, nhiên vật liệu này trong thời gian tới, ảnh hưởng đến quá trình phục hồi và phát triển kinh tế, đồng thời gia tăng áp lực lạm phát đối với các quốc gia.

Nguy cơ mới có thể hiện hữu và ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đối với áp lực gia tăng lạm phát và suy giảm tăng trưởng kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc, đối tác thương mại chính của Việt Nam với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa chiếm gần 25% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của toàn bộ nền kinh tế, nhập khẩu tư liệu sản xuất từ Trung Quốc chiếm 34,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu tư liệu sản xuất, đang theo đuổi chính sách Zero COVID, làm gián đoạn hoạt động thương mại Việt Nam- Trung Quốc. Điều này dẫn đến gián đoạn chuỗi cung ứng, khan hiếm nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và giá cả hàng hóa sẽ càng bị đẩy lên cao.

Thưa ông, giá nguyên, nhiên vật liệu tăng cao, sẽ gây nên áp lực lạm phát như thế nào?

Đại dịch COVID-19 và khủng hoảng Nga-Ukraine đã đẩy giá nguyên, nhiên vật liệu và lạm phát thế giới tăng cao, lập kỷ lục trong mấy thập kỷ gần đây. Tháng 3 năm 2022 lạm phát của Mỹ tăng 8,5% - mức cao nhất kể từ năm 1981, lạm phát của khu vực đồng tiền chung châu Âu ở mức cao kỷ lục 7,5% và nhiều khả năng còn tiếp tục tăng cao.

Đối với Việt Nam, xăng dầu là mặt hàng chiến lược, quan trọng, chiếm 3,52% trong tổng chi phí sản xuất của toàn bộ nền kinh tế, chiếm 1,5% trong tổng chi tiêu dùng của hộ gia đình, sử dụng tại hầu hết các ngành, lĩnh vực nên biến động giá xăng dầu sẽ tác động mạnh đến giá sản xuất và giá tiêu dùng. Khi giá xăng dầu trong nước tăng 10% sẽ làm cho lạm phát tăng 0,36%.

Đặc biệt, sản xuất xăng dầu trong nước phụ thuộc khá lớn vào nhập khẩu dầu thô, xăng dầu sản xuất trong nước chỉ chiếm từ 70 - 75% tổng nguồn cung xăng dầu cả nước nên biến động giá xăng dầu trong nước phụ thuộc vào biến động giá xăng dầu thế giới.

Trong 4 tháng đầu năm 2022, giá dầu Brent tăng khoảng 60% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 3 năm 2022, Tập đoàn tài chính ING, có trụ sở chính tại Amsterdam dự báo giá dầu Brent trung bình năm 2022 ở mức 96 USD/thùng; Bloomberg dự báo 92 USD/thùng năm 2022 và 86 USD/thùng năm 2023. Dự báo trung bình giá dầu Brent của các tổ chức quốc tế ở mức 89 USD/thùng năm 2022 và 80 USD/ thùng năm 2023.

Sức ép tăng giá dầu từ nay đến cuối năm 2022 là rất lớn khi kinh tế Trung Quốc dự báo sẽ tăng trở lại làm tăng thêm nhu cầu dầu trong khi khả năng tăng nguồn cung dầu không lớn, cùng với lệnh cấm vận của EU đối với dầu mỏ Nga. Với tác động sâu, rộng tới các ngành, lĩnh vực, dự báo trong năm 2022 giá xăng dầu tiếp tục tăng sẽ gây nên áp lực lạm phát và tạo ra mặt bằng giá mới cao hơn của nền kinh tế.

Giá nguyên vật liệu, kim loại công nghiệp, phân bón, thức ăn chăn nuôi, giá lương thực thế giới tăng cao, vượt dự báo của nhiều tổ chức tài chính và kinh doanh hàng hoá quốc tế. Bên cạnh xăng dầu, giá các loại kim loại công nghiệp tăng cao, lập kỷ lục mới như: giá nikel tăng gấp đôi, đạt mức 33.820 USD/tấn; giá nhôm đã tăng lên mức kỷ lục 4.000 USD/tấn.

Giá nhập khẩu một số nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước quý I/2022 so với cùng kỳ năm trước tăng cao như: giá nhập khẩu sắt thép tăng 43,87%; giá xăng dầu tăng 40,44%; giá thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 27,73%. Chỉ số giá lương thực toàn cầu của FAO tháng 3 tăng lên mức 159,3 điểm, cao nhất trong 6 thập kỷ gần đây, tăng liên tục trong 7 quý vừa qua, mức tăng dài nhất kể từ năm 2008.

Kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, sản xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu. Cùng với đó, thực hiện giãn cách xã hội, đóng cửa một số lĩnh vực tại địa phương do ảnh hưởng của đại dịch trong năm 2021 nhằm hạn chế lây lan dịch bệnh đã gây ra đứt gãy chuỗi cung ứng và thiếu hụt lao động, tạo áp lực rất lớn đối với khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh trong nỗ lực khôi phục hoạt động sản xuất trở lại bình thường.

Để có đủ lao động, doanh nghiệp và hộ kinh doanh phải trả lương cao hơn, tăng chi phí đào tạo và tuyển dụng, từ đó làm tăng giá thành sản phẩm. Nếu không khẩn trương thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người lao động và tuyển dụng lao động của doanh nghiệp, thiếu hụt lao động sẽ đẩy giá cả tăng cao. Đây cũng là yếu tố gây áp lực lạm phát của nền kinh tế trong năm 2022 và các năm tiếp theo.

Tổng cầu tăng đột biến trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng, riêng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội có quy mô 350 nghìn tỷ đồng. Yếu tố này có gây áp lực lớn lên lạm phát trong năm 2022 và 2023 không, thưa ông?

Chính phủ đang chỉ đạo khẩn trương thực hiện trong hai năm 2022 - 2023 Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội với quy mô 350 nghìn tỷ đồng, cùng với các gói hỗ trợ của năm 2021 đang thẩm thấu vào mọi lĩnh vực của nền kinh tế sẽ làm cho tổng cầu tăng đột biến. Cùng với đó, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng mạnh sau thời gian dài chịu ảnh hưởng của đại dịch, những vấn đề này sẽ là áp lực lớn lên lạm phát trong hai năm 2022 và 2023.

Trong gói hỗ trợ 350 nghìn tỷ đồng, gói tài khóa chiếm 83%, trị giá 291 nghìn tỷ đồng, gói tiền tệ chỉ chiếm 14%, còn lại 3% là các gói hỗ trợ khác. Trong gói tiền tệ, gói giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8%, trị giá 49,4 nghìn tỷ đồng không bơm tiền ra lưu thông. Gói cấp bù lãi suất 2%/năm trị giá 40 nghìn tỷ đồng cũng không chuyển trực tiếp cho doanh nghiệp và bơm tiền ra thị trường.

Ngoài ra, gói tăng hạn mức bảo lãnh đối với trái phiếu phát hành trong nước cho Ngân hàng Chính sách xã hội 38,4 nghìn tỷ đồng để cho vay hỗ trợ giải quyết việc làm; học sinh, sinh viên; cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập... và gói 46 nghìn tỷ đồng để nhập khẩu vaccine, thuốc điều trị và thiết bị, vật tư y tế phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 cũng không bơm tiền ra thị trường.

Do đó, các gói hỗ trợ liên quan tới chính sách tiền tệ không gây áp lực lên lạm phát. Tuy nhiên, gói đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng trị giá 113.550 tỷ đồng có khả năng gây áp lực lên lạm phát do tăng đầu tư khiến nhu cầu nguyên, nhiên vật liệu xây dựng, đặc biệt là xi măng, sắt thép và các loại vật tư, thiết bị, nguyên liệu khác phục vụ công trình xây dựng tăng.

Trong bối cảnh nguồn cung trên thị trường thế giới đang bị gián đoạn và chao đảo do khủng khoảng ở Ukraine sẽ khiến giá các mặt hàng này tăng cao. Thực hiện giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong bối cảnh nguồn cung nguyên vật liệu xây lắp không dồi dào sẽ tạo thêm áp lực lạm phát.

Vậy ông có thể dự báo lạm phát năm 2022 và 2023 của Việt Nam ở mức nào?

Các yếu tố về nguồn cung, căng thẳng địa chính trị đưa đến rủi ro làm gia tăng lạm phát. Gần đây, IMF dự báo lạm phát năm 2022 của Việt Nam ở mức 3,9%, sát ngưỡng mục tiêu kiểm soát 4% đặt ra; Ngân hàng Standard Chartered dự báo lạm phát năm 2022 của Việt Nam vượt mục tiêu 4% Quốc hội đề ra và có thể lên 5,5% trong năm 2023.

Trong khi đó, dựa trên yếu tố giá dầu thô tăng cao, Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) dự báo nếu giá dầu bình quân năm 2022 ở mức 80 USD/thùng lạm phát năm 2022 của Việt Nam có thể đạt mức 4,5%; tuy nhiên nếu giá dầu duy trì trên ngưỡng 100 USD/thùng lạm phát có thể tăng lên mức 5,1%.

Căn cứ vào các yếu tố tác động từ lạm phát chuỗi cung ứng; thiếu hụt nguồn cung; tổng cầu tăng đột biến; thiếu hụt lao động và dự kiến tăng lương tối thiểu vùng. Bên cạnh đó, giá xăng dầu, giá điện dự báo tăng do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng tăng trong thời gian tới; giá lương thực gia tăng theo giá lương thực thế giới; giá thực phẩm, đặc biệt giá thịt dự báo tăng vì giá thức ăn chăn nuôi tăng do đứt gãy chuỗi cung ứng và nhu cầu tiêu dùng cuối năm tăng.

Do vậy dự báo lạm phát của Việt Nam năm 2022 nằm trong khoảng từ 4 - 4,5%. Với độ trễ của gói phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và dự báo năm 2023 lạm phát vẫn ở mức cao so với lạm phát mục tiêu của các nền kinh tế là đối tác quan trọng của kinh tế Việt Nam, dự báo lạm phát năm 2023 của Việt Nam khoảng từ 5 - 5,5%, lạm phát cả giai đoạn 2021-2025 khoảng 4%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra trong kiểm soát lạm phát cả thời kỳ kế hoạch 5 năm.

Ông có thể đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát trong thời gian tới?

Để thực hiện thành công mục tiêu kiểm soát lạm phát, Chính phủ, các địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cần thực hiện một số giải pháp. Trước mắt, Chính phủ cần kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ các quy định không hợp lý nhằm cắt giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng thúc đẩy tổng cung, giảm áp lực lạm phát.

Trong bối cảnh đứt gãy chuỗi cung ứng, các nước thực hiện lệnh trừng phạt của Mỹ và phương Tây đối với Nga làm trầm trọng thêm thiếu hụt nguồn cung. Chính phủ, các bộ, ngành liên quan, đặc biệt cộng đồng doanh nghiệp cần đa dạng nguồn cung. Đảm bảo nguồn cung của từng nhóm nguyên vật liệu của mỗi ngành không phụ thuộc vào một thị trường, một khu vực.

Bộ Công Thương và Bộ Tài chính cần minh bạch và đơn giản hoá quy trình thương mại; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả; thúc đẩy cạnh tranh trong nước đối với lĩnh vực logistics, thương mại bán buôn và bán lẻ để giảm chi phí thương mại trong nước và quốc tế, giữ khả năng cạnh tranh và thị phần của hàng hoá Việt trên thị trường thế giới.

Cùng với đó, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý nghiêm nếu phát hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong dài hạn cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư sản xuất các mặt hàng này, chủ động nguồn nguyên vật liệu, tăng tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ, thực hiện hài hoà chính sách tài khoá và tiền tệ. Sử dụng chính sách tiền tệ đúng liều lượng, hợp lý, không quá chú trọng vào chính sách tiền tệ để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng vì hỗ trợ tín dụng và hạ lãi suất cho vay dẫn tới gia tăng lạm phát và rủi ro cho hệ thống ngân hàng.

Cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa. Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong ngắn hạn cần có giải pháp nhập khẩu kịp thời nguyên nhiên vật liệu, cắt giảm chi phí sản xuất; đối với các mặt hàng thiếu hụt dài hạn cần chủ động tìm kiếm nguồn hàng và đối tác cung ứng thay thế.

Xăng dầu là mặt hàng chiến lược, giá bán được quản lý trên cơ sở bảo đảm lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Bộ Công Thương cần nắm bắt kịp thời giá xăng dầu thế giới, nâng cao năng lực và chất lượng dự báo, có giải pháp tổng thể đảm bảo đầy đủ nguồn cung xăng dầu dài hạn hơn. Bộ cần kiến nghị với Chính phủ mở rộng, nâng cao năng lực kho dự trữ xăng dầu đáp ứng dài hơn nhu cầu của nền kinh tế, giảm bớt lệ thuộc và tác hại của giá xăng dầu thế giới tăng cao đến sự ổn định và phát triển kinh tế.

Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo điều hành giá của Chính phủ cần theo dõi chặt chẽ diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, kịp thời cảnh báo các nguy cơ gây nên lạm phát trong nước. Các cơ quan truyền thông cần thực hiện hiệu quả hoạt động truyền thông nhằm thông tin kịp thời, chính xác và rõ ràng về các chính sách, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, loại bỏ thông tin sai lệch về giá cả thị trường, không để xảy ra hiện tượng lạm phát do tâm lý từ thông tin sai gây ra.

Xin cám ơn ông!

Thúy Hiền