Cần đầu tư 1 - 1,5 tỷ USD/năm để phát triển hệ sinh thái nhân lực bán dẫn
Ngày 30/6, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức hội thảo với chủ đề “Quản trị nguồn nhân lực chiến lược trong phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam”.
Phát biểu tại hội thảo, TS. Chử Đức Hoàng, Chánh Văn phòng Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 có khoảng 50.000 kỹ sư, chuyên gia liên quan ngành chip, kỳ vọng thu hút các doanh nghiệp FDI lớn, những “đại bàng” công nghệ, xây dựng ba khu công nghệ bán dẫn tích hợp tại Hoà Lạc, TP HCM và Đà Nẵng. Song song đó, Việt Nam cũng phát triển chuỗi cung ứng nội địa với 5 - 7 doanh nghiệp thiết kế chip đạt doanh thu >100 triệu USD/năm và sở hữu trên 200 bằng sáng chế quốc tế về IP bán dẫn.
Tuy nhiên, quá trình phát triển nguồn nhân lực ngành bán dẫn tại Việt Nam vẫn tồn tại nhiều vướng mắc. Cụ thể, Việt Nam đang thiếu chiến lược về chất lượng và cấu trúc. Mặt khác, hệ thống đào tạo hiện tại mới chỉ đáp ứng 22% yêu cầu kỹ năng chuyên sâu, thiếu hụt 85% chuyên gia đầu ngành. Đáng chú ý, tỷ lệ "chảy máu chất xám" lên đến 35% khi 70% sinh viên xuất sắc du học không trở về và 65% kỹ sư được đào tạo ở nước ngoài không quay lại sau 5 năm làm việc.
Do đó, để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng 25%/năm cho ngành bán dẫn Việt Nam, ông Chử Đức Hoàng cho rằng cần nghiên cứu xây dựng mô hình đào tạo - giữ chân - phát triển cho 50.000 kỹ sư với tỷ lệ chính xác 7:2:1, tức là 70% kỹ sư vận hành, 20% kỹ sư thiết kế vào 10% kỹ sư nghiên cứu.
TS. Chử Đức Hoàng, Chánh Văn phòng Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết Việt Nam. (Ảnh: AM).
Nên đầu tư cả hệ sinh thái thay vì chỉ tập trung thu hút nhân tài cao cấp
Chuyên gia đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ "con voi” và “ngà voi" để phân tích về mô hình hệ sinh thái nhân lực đa tầng, với đầu tư trọng điểm vào nhân tài hàng đầu để phát triển nền tảng rộng lớn của ngành bán dẫn.
Theo đó, “con voi” chính là toàn bộ hệ sinh thái nhân lực đa tầng của ngành bán dẫn, với hơn 50.000 người, phân bố theo tỷ lệ 15:35:50. Trong đó bao gồm 10.000 nhân lực chuỗi cung ứng, thương mại hóa IP, phát triển 3 - 5 trung tâm đổi mới sáng tạo tại Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng; 15.000 chuyên gia vật liệu, kiểm thử, đóng gói, cần 7 - 10 chương trình hợp tác với TSMC, Samsung để đạt tiêu chuẩn quốc tế; 25.000 kỹ sư thiết kế, quy trình, vận hành nhà máy - đòi hỏi đầu tư 500 triệu USD/năm cho đào tạo tại 15 trường đại học trọng điểm.
Trong khi đó, “ngà voi” nhân lực là biểu hiện bề nổi, thu hút truyền thông và đầu tư ban đầu khoảng 200 - 300 triệu USD/năm; 3 - 5 chuyên gia thiết kế chip Việt kiều từ Silicon Valley (lương 25.000 - 30.000 USD/tháng) với kinh nghiệm tại Qualcomm, Nvidia, Intel; 10 - 15 "thần đồng" AI và thiết kế chip tốt nghiệp từ Stanford, MIT, Berkeley mỗi năm - khả năng tạo ra IP core giá trị 5 - 10 triệu USD; 50 - 70 kỹ sư trình độ cao có bằng quốc tế ASIC/FPGA, tham gia thiết kế SoC cho IoT, xe điện và các ứng dụng 5G.
Dẫn kinh nghiệm từ Đài Loan (Trung Quốc) giai đoạn 1980 - 2000, ông Hoàng nhận định để đạt được mục tiêu 50.000, Việt Nam cần đầu tư 1 - 1,5 tỷ USD/năm vào toàn bộ hệ sinh thái nhân lực của ngành bán dẫn. Trong đó, cần xây dựng ba trung tâm đào tạo quốc tế, 5 phòng thí nghiệm chuyên sâu và 10 chương trình hợp tác công - tư với các tập đoàn như Intel, Amkor. Chuyên gia cho rằng chiến lược này sẽ hiệu quả hơn việc chỉ tập trung thu hút 100 - 200 nhân tài cao cấp mà thiếu nền tảng hỗ trợ.
Với mục tiêu 50.000 kỹ sư bán dẫn đến 2030 và nâng tỷ trọng trong chuỗi giá trị từ 5% lên 15 - 20%, chuyên gia đề xuất Việt Nam cần đầu tư mạnh vào đào tạo cả ba tầng. Trong đó, tầng kỹ thuật viên tăng lên 80.000 - 100.000 người, tầng kỹ sư cần đạt 15.000 - 20.000 người thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu và hợp tác quốc tế, tầng lãnh đạo cần đạt 2.000 - 3.000 chuyên gia thông qua thu hút Việt kiều và đầu tư vào Viện Nghiên cứu Bán dẫn (mô hình tương tự ITRI - Viện Nghiên cứu Công nghệ Công nghiệp Đài Loan).