Triển vọng kinh tế Đông Nam Á sáng sủa hơn nhờ những xu hướng dài hạn
HSBC dự báo sáu nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á là Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines, Singapore và Việt Nam sẽ tăng trưởng 4,2% trong năm nay và 4,8% trong năm tới. Tốc độ này sẽ vượt xa mức tăng 1,1% dự kiến vào năm 2023 hay ước tính 0,7% trong năm 2024 ở các nước phát triển.
Sự tăng tốc này càng đáng chú ý hơn khi dòng tiền từ khách du lịch Trung Quốc đổ vào Đông Nam Á không như dự kiến. Ví dụ, ở Singapore và Thái Lan, cả hai điểm đến ưa chuộng của khách du lịch Trung Quốc, lượng khách du lịch chỉ bằng khoảng 1/3 so với mức trước đại dịch COVID-19.
Du lịch phục hồi chắc chắn sẽ tác động tích cực đến kinh tế Đông Nam Á. Đồng thời, thương mại, quá trình chuyển đổi số và giảm khí thải xuống mức 0 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của khu vực trong nhiều thập kỷ tới, cũng đảm bảo rằng khu vực năng động này vẫn là một động lực tăng trưởng của toàn cầu.
Đông Nam Á đã đi một chặng đường dài với tư cách là một trung tâm sản xuất. Khu vực này hiện chiếm 8% xuất khẩu toàn cầu và kể từ năm 2020 đã vượt qua Liên minh châu Âu để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc.
Khu vực này đang được hưởng lợi từ việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu khi tham gia hai trong số các hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
RCEP nói riêng, với việc cắt giảm thuế quan và quy tắc xuất xứ thân thiện với doanh nghiệp, đang làm tăng sức hấp dẫn của Đông Nam Á như một cơ sở sản xuất, một thực tế mang lại cơ hội mà nhiều công ty đang muốn nắm bắt.
Theo một cuộc khảo sát gần đây của HSBC, các công ty châu Á-Thái Bình Dương có kế hoạch đặt 24,4% chuỗi cung ứng ở Đông Nam Á trong vòng một đến hai năm tới, tăng từ mức 21,4% vào năm 2020.
Khi nhiều công ty đa dạng hóa và áp dụng chiến lược sản xuất "Trung Quốc + 1", Đông Nam Á sẽ tiếp tục giành được thị phần. Đầu tư trực tiếp nước ngoài toàn cầu nhiều hơn sẽ được hướng tới khu vực khi trọng tâm của sản xuất toàn cầu tiếp tục thay đổi.
Quá trình chuyển đổi tiến tới phát thải bằng 0 là xu hướng cấu trúc thứ hai đang mang lại những cơ hội to lớn khi Đông Nam Á chạy đua để "xanh hóa lưới điện".
Đông Nam Á là một trong những khu vực có nguy cơ cao nhất thế giới do hiện tượng nóng lên toàn cầu nói chung và mực nước biển dâng nói riêng. Tuy nhiên, để thúc đẩy sự phát triển của khu vực, nhu cầu về năng lượng tiếp tục tăng nhanh.
Phần lớn nguồn năng lượng của Đông Nam Á đến từ nhiên liệu hóa thạch, vì vậy điều đáng khích lệ khi Indonesia và Việt Nam - hai trong số các nền kinh tế năng động nhất khu vực - đã từng công bố Quan hệ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng với Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới và các quốc gia phát triển khác.
Theo mô hình tài trợ mới này, hàng chục tỷ USD tài chính công và tư nhân sẽ được huy động, góp phần vào quá trình trung hòa khí thải carbon trong ngành điện của hai quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi năng lượng sạch.
Sự đổi mới hướng tới công nghệ sạch cũng đang được đẩy mạnh ở Đông Nam Á. Công nghệ sạch đang ở đỉnh cao của sự tăng trưởng theo cấp số nhân và cũng như công nghệ tài chính, các công ty trong khu vực có cơ hội bản địa hóa công nghệ toàn cầu và mở rộng quy mô trong nước. Đầu tư và sự hỗ trợ tài chính sẽ giúp đẩy nhanh quá trình phát triển và áp dụng công nghệ.
Một yếu tố mang lại sự lạc quan dài hạn nữa về Đông Nam Á là quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của nền kinh tế khu vực. Đông Nam Á đã có một nền kinh tế kỹ thuật số sôi động, trị giá gần 200 tỷ USD vào năm ngoái và dự kiến sẽ vượt quy mô 300 tỷ USD vào năm 2025. Thêm vào đó là 460 triệu dân số kết nối Internet, lý do tại sao các công ty đang chuyển đổi mô hình kinh doanh để phục vụ cho việc thay đổi hành vi của khách hàng.
Đại dịch COVID-19 đã cho thấy tầm quan trọng của thương mại điện tử cũng như sự hiện diện trực tuyến đối với sự tồn tại của một công ty. Việc chuyển sang các mô hình kinh doanh trực tiếp đến người tiêu dùng đang giúp các công ty kiểm soát tốt hơn việc bán hàng, tiếp thị và quan trọng là dữ liệu khách hàng. Điều này không chỉ có thể cung cấp cơ sở cho phân tích thời gian thực mà còn giúp tạo ra các dự báo chính xác.
Nền tảng cho sự phát triển bùng nổ của nền kinh tế kỹ thuật số Đông Nam Á là sự phổ biến của thanh toán theo thời gian thực trong khu vực. Chẳng hạn, Thái Lan là thị trường thanh toán theo thời gian thực lớn thứ tư thế giới tính theo số lượng, theo nhà phát triển phần mềm thanh toán ACI Worldwide. Mặc dù các khoản thanh toán tức thời có thể được thực hiện trong nước, nhưng những gì nhận được thực sự nằm ở việc liên kết các hệ thống thanh toán theo thời gian thực khác nhau của khu vực.
Khi điều đó trở thành hiện thực, tốc độ giao dịch có thể sẽ tăng vọt, cho dù là giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp hay giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng. Điều này sẽ thúc đẩy hoạt động kinh tế.
Không nơi nào miễn nhiễm với những thách thức mà nền kinh tế toàn cầu đang phải đối mặt. Chi phí vốn tăng cao sẽ chỉ làm tăng sự giám sát đối với từng đồng USD đầu tư, cho dù được sử dụng để di chuyển sản xuất, trung hòa khí thải carbon trong chuỗi cung ứng hay số hóa hoạt động.
Thế nhưng, với tư cách là một động lực kinh tế với nhân khẩu học thuận lợi, Đông Nam Á có vị trí tốt để nắm bắt các cơ hội bắt nguồn từ những xu hướng dài hạn này. Khu vực cần tiếp tục nuôi dưỡng và thu hút nhân tài. Lĩnh vực tài chính sẽ tiếp tục đóng vai trò trong việc hiện thực hóa tiềm năng tăng trưởng của Đông Nam Á.