|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Nhà đất

Phân lô bán nền trái phép, nhà chung cư chưa xây dựng xong phần móng không được vay thanh toán tiền đặt cọc

04:58 | 27/06/2022
Chia sẻ
Tại dự thảo Thông tư sửa đối vừa được công bố mới đây, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng không cho vay thanh toán tiền đặt cọc để thực hiện các giao dịch trong tương lai mà tại thời điểm đặt cọc chưa đủ điều kiện để thực hiện theo quy định.

(Ảnh minh họa: TTXVN). 

Hiệp hội Bất động sản TP HCM vừa có văn bản góp ý dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng.

Theo đánh giá của Chủ tịch HoREA Lê Hoàng Châu, các quy định pháp luật và đề xuất tại dự thảo Thông tư vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của khách hàng mua, thuê mua bất động sản, nhà ở hình thành trong tương lai, vừa góp phần xây dựng thị trường bất động sản lành mạnh.

Trong đó, dự thảo Thông tư vẫn cho phép các doanh nghiệp bất động sản làm ăn đàng hoàng, tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, có các dự án kinh doanh bất động sản, nhà ở hình thành trong tương lai hội đủ các điều kiện huy động vốn vẫn được vay tín dụng để thanh toán tiền đặt cọc.

Tổ chức tín dụng chỉ không được cho vay để thanh toán tiền đặt cọc để thực hiện các giao dịch trong tương lai như các trường hợp phân lô bán nền trái phép hoặc các dự án nhà chung cư chưa xây dựng xong phần móng, chưa hội đủ các điều kiện để được huy động vốn theo quy định tại Điều 55 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 về "điều kiện của bất động sản hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh" và Điều 56 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định "chủ đầu tư dự án bất động sản trước khi bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai phải được ngân hàng thương mại có đủ năng lực thực hiện bảo lãnh nghĩa vụ tài chính".

Tuy nhiên, HoREA cho rằng có một số nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung chưa thật hợp lý, chưa hạn chế được rủi ro tín dụng nhưng lại có biểu hiện của việc thắt chặt tín dụng nên hiệp hội đưa ra một số kiến nghị.

Cụ thể, HoREA đề nghị tổ chức tín dụng được cho vay để chứng minh khả năng tài chính của khách hàng vay trong trường hợp khách hàng vay có tài sản bảo đảm cho khoản vay.

Chẳng hạn như trường hợp cho vay mở sổ tiết kiệm chứng minh khả năng tài chính đi du học, du lịch; hay cho vay chứng minh khả năng tài chính để đấu thầu, đấu giá… mà khách hàng vay có tài sản bảo đảm cho khoản vay.

Bên cạnh đó, HoREA kiến nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép tổ chức tín dụng cho vay để "góp vốn, hợp tác đầu tư" trong trường hợp khách hàng vay có tài sản bảo đảm.

Theo HoREA, để kiểm soát rủi ro trong hoạt động cho vay tín dụng thì cần phải dựa vào các yếu tố: Năng lực chủ thể của khách hàng vay; năng lực tài chính/năng lực trả nợ của khách hàng vay; tài sản bảo đảm của khách hàng vay; lịch sử tín dụng/uy tín của khách hàng vay; các điều kiện tín dụng của khoản vay.

Do vậy, việc kiểm soát nhu cầu vốn thông qua biện pháp không được cho vay tín dụng chỉ nên quy định trong các trường hợp như: nhu cầu vốn cho các mục đích mà pháp luật cấm; nhu cầu vốn cho các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện và nhu cầu vốn để đảo nợ hoặc nhằm mục đích che giấu nợ quá hạn/nợ xấu.

Đối với các ngành nghề không khuyến khích cho vay thì chỉ yêu cầu áp dụng các điều kiện tín dụng khắt khe hơn để hạn chế tín dụng, ví dụ như giới hạn tỷ lệ cho vay/tài sản bảo đảm; giới hạn về tỷ lệ cho vay/tổng dự nợ…

Còn với khách hàng vay có lịch sử tín dụng tốt, có tài sản bảo đảm tốt, thanh khoản cao, pháp lý đầy đủ, tài sản đó cũng được xem là nguồn lực tài chính của khách hàng như là vốn tự có, vốn đối ứng, ứng trước của khách hàng trong dự án/phương án vay vốn…

Ngoài ra, HoREA kiến nghị quy định nội bộ của tổ chức tín dụng nhằm mục tiêu “nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý thay vì kiểm soát việc cho vay để đầu tư kinh doanh chứng khoán; cho vay mua, kinh doanh bất động sản; cho vay cho các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư; cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống có giá trị lớn theo xác định của tổ chức tín dụng.

“Việc Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng quy định nội bộ của các tổ chức tín dụng là rất cần thiết, vừa phục vụ công tác quản lý của chính tổ chức tín dụng, vừa phục vụ công tác quản lýnghiệp vụ, quản lý ngành của Ngân hàng Nhà nước.

Tuy nhiên, sử dụng từ kiểm soát việc cho vay mua, kinh doanh bất động sản và kiểm soát việc cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống có giá trị lớn đã dẫn đến luồng dư luận cho là Ngân hàng Nhà nước định hướng thắt chặt tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, bao gồm cả thắt chặt cho vay để mua bất động sản cao cấp do đây là khoản vay có giá trị lớn.

Điều này có thể dẫn đến hệ quả là các tổ chức tín dụng ngại hoặc không dám cho vay đối với doanh nghiệp bất động sản, nhà đầu tư thứ cấp và kể cả cá nhân, hộ gia đình vay để mua, thuê mua bất động sản, nhà ở, hoặc vay để xây nhà, sửa chữa nhà, mà điều này sẽ tác động tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững của thị trường bất động sản.

Do vậy, nên thay thế từ kiểm soát bằng quản lý hoặc tăng cường quản lý và Ngân hàng Nhà nước cần quy định rõ khoản vay có giá trị lớn để thuận tiện cho công tác thống kê và quản lý”, HoREA nêu.

Ngày 23/6, Ngân hàng Nhà nước công bố dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng.

Một trong những nội dung quan trọng của dự thảo đang được dư luận quan tâm là Ngân hàng Nhà nước bổ sung một số nhu cầu vốn không được phép cho vay trong Điều 8 của Thông tư 39.

Trong đó, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các tổ chức tín dụng không cho vay thanh toán tiền đặt cọc để thực hiện các giao dịch trong tương lai mà tại thời điểm đặt cọc chưa đủ điều kiện để thực hiện theo quy định của pháp luật.

Theo Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng cấp tín dụng cho khách hàng để đặt cọc hướng đến các công ty này chuyển nhượng bất động sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, hầu hết dự án này lại chưa đủ điều kiện để thực hiện như chưa có giấy phép xây dựng, chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,

Sau khi ngân hàng cấp tín dụng, khách hàng và chủ đầu tư hủy hợp đồng đặt cọc do không hoàn thiện được thủ tục pháp lý để ký hợp đồng chuyển nhượng, dẫn tới việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn khó khăn, tiềm ẩn rủi ro.

Ngọc Anh