Kinh tế châu Âu: Từ vị thế thống trị đến tình trạng tụt hậu
Nhìn lại gần một thế kỷ vừa qua, kể từ khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, năng suất lao động của châu Âu liên tục tăng.
Vào những năm 1990, các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu (EU) đã bắt kịp với năng suất tại Mỹ. Nhưng đáng tiếc là hiện nay châu Âu lại đang tụt hậu nhanh chóng về năng suất so với cường quốc lớn nhất thế giới và một số nước phát triển khác.
Một so sánh khác minh chứng cho sự tụt hậu của EU: Đó là vào năm 2008, nền kinh tế EU lớn hơn Mỹ một chút, còn hiện nay nền kinh tế Mỹ lớn hơn một phần ba so với EU.
Sự thua kém không chỉ thể hiện trên khía cạnh số liệu Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Các công ty công nghệ mới của châu Âu phát triển rất chậm trong nhiều năm gần đây và gần như lục địa này không có công ty công nghệ lớn toàn cầu nào.
Chỉ có hai công ty châu Âu trong số 20 công ty công nghệ lớn nhất thế giới tính theo vốn hóa thị trường là SAP của Đức - công ty sản xuất hệ thống thông tin kinh doanh và ASML – nhà chế tạo các thiết bị quang khắc dùng để sản xuất chất bán dẫn (chip) của Hà Lan.
Châu Âu dường như cũng đang giảm dần đều về thứ hạng toàn cầu trong nhiều lĩnh vực khoa học và đổi mới.
Dòng tiền giá rẻ nhờ chính sách lãi suất thấp do các ngân hàng trung ương tạo ra sau đợt khủng hoảng tài chính và sự hỗ trợ hào phóng của các chính phủ trong đại dịch COVID-19 đã dẫn đến việc hàng loạt công ty mới thành lập hoạt động kém hiệu quả và đang ngày càng trở nên "ốm yếu" hơn khi phải đối đầu với những khó khăn do giá năng lượng cao và lãi suất tăng.
Đáng chú ý, châu Âu dường như không có tầm nhìn về cơ hội sinh lợi. Có rất nhiều nguyên nhân lý giải cho nhận định này. Đầu tiên là sự thiếu đầu tư vào phát triển và đổi mới. Châu Âu đã bỏ lỡ làn sóng số hóa cuối cùng và có nguy cơ bỏ lỡ cả sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI).
Ví dụ, vào năm 2022, theo công ty tư vấn McKinsey, các công ty châu Âu đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) ít hơn 60% so với các công ty Mỹ. Các công ty châu Âu có vẻ như đã không nhìn thấy cơ hội sinh lời trên thị trường hoặc họ lo ngại phải trả thêm một số chi phí trong trường hợp tung sản phẩm mới ra thị trường.
Điều này không phải hoàn toàn xuất phát từ những quy định có phần chặt chẽ về điều kiện kinh doanh của EU hay quy mô của thị trường. Theo một số phân tích, quy định về điều kiện kinh doanh ở Mỹ không khác nhiều so với ở châu Âu, nếu như không muốn nói là có một số quy định gần như giống nhau.
Về thị trường, EU có thị trường chung, tổng dân số lớn hơn và do đó có nhiều khách hàng tiềm năng hơn Mỹ. Vậy lý do chính nằm ở đâu?
Rõ ràng, các quy định của EU và quốc gia thành viên đã tạo gánh nặng cho các công ty nội khối nhiều hơn so với các quy định tại Mỹ.
Chỉ có một thị trường duy nhất hoạt động trên tất cả các địa phương của Mỹ, trong khi thị trường chung châu Âu lại bị phân mảnh bởi quy định của mỗi quốc gia thành viên. Nghĩa là châu Âu không hoạt động tốt trong một số lĩnh vực, cho dù đó là viễn thông, năng lượng hay dược phẩm và vận tải hành khách, hàng hóa.
Ngoài ra, EU còn tồn tại các chế độ thuế khác nhau và doanh nghiệp cần phải làm việc với nhiều cơ quan chức năng khác nhau trước khi có thể tiếp cận các thị trường trong phạm vi nội khối.
Quy định ở châu Âu ngăn cản chính các công ty tại lục địa này dễ dàng mở rộng quy mô. Nó gây ra tình trạng tốn kém chi phí và ngày càng gắn liền với những yêu cầu quan liêu hơn.
Việc không thể hoạt động trong một thị trường chung duy nhất dẫn đến thực tế là các công ty đa quốc gia lớn không phát triển ở đây và thị trường bị phân mảnh nghiêm trọng. Đồng thời, điều này dẫn đến giá hàng hóa cao hơn và do đó chi phí cao hơn cho khách hàng.
Thêm nữa là việc tuyển dụng và sa thải nhân viên trở nên rất khó khăn ở một số nước thành viên EU. Có những nơi và trong một số ngành rất khó để có thể sa thải nhân viên và một số vị trí sẽ không bao giờ được công ty tuyển dụng hợp pháp.
Đó là nguyên nhân khiến nhân viên mất đi động lực học tập suốt đời, khi trình độ chuyên môn không phải là lý do chính để tuyển dụng. Nó có thể dẫn đến tình trạng thiếu lao động có trình độ, từ đó ít công nghệ hiện đại được áp dụng và dẫn đến năng suất thấp hơn. Nhìn chung, điều này dẫn đến sự mâu thuẫn và thiếu động lực.
“Doanh nghiệp châu Âu cần lấy lại niềm tin” là nội dung chính trong một tuyên bố gần đây của Hiệp hội Phòng Thương mại và Công nghiệp châu Âu.
Tuyên bố nhấn mạnh cần thể hiện điều đó trong các tuyên bố chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà có những phàn nàn rằng bản thân EU nói chung đang không có bất cứ kế hoạch nào hướng về phía trước, cũng như không có tầm nhìn lớn nào có thể đạt được. Tất cả những gì mà khối này đang thể hiện chỉ là những kế hoạch không thực tế hoặc bị trì hoãn có chủ ý.
Vậy EU cần phải làm gì? Một báo cáo cạnh tranh mới do cựu Giám đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), Mario Draghi, đệ trình lên Ủy ban châu Âu (EC) gần đây đã đưa ra giải pháp giúp tăng cường khả năng cạnh tranh của EU.
Báo cáo nhận định cần phải tăng cường đầu tư vào khoa học, phát triển và đổi mới. Do tỷ lệ này ở châu Âu thấp hơn đáng kể so với ở Mỹ, nên các nước EU riêng lẻ và đặc biệt là EU nói chung sẽ cần phải tham gia đáng kể vào các hoạt động như vậy.
Nhưng điều đó là chưa đủ. Trước hết, các nhà quản lý EU cần giảm bớt gánh nặng về yêu cầu hành chính cho các công ty và doanh nhân, cũng như đẩy nhanh việc cấp các loại giấy phép xây dựng và kinh doanh.
Điều này không nhất thiết có nghĩa là phải có ít quy định hơn mà chúng phải được thực hiện hiệu quả hơn. Sau đó, cần phải hoàn thiện thị trường châu Âu thống nhất và tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh liền mạch giữa các quốc gia thành viên trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế càng nhiều càng tốt.
Đây là giải pháp có thể khơi dậy sự lạc quan nhất định cho các doanh nghiệp và nếu nó được phản ánh qua việc giá cả giảm, thì hiệu quả đạt được sẽ lan tỏa trên các phần còn lại của nền kinh tế EU.
Nếu hỗ trợ đổi mới tập trung vào một số lĩnh vực nhất định như nghiên cứu, phát triển vũ khí hiện đại hoặc phương thức vận tải mới, thì điều này phải diễn ra cùng với đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bao gồm tàu cao tốc hoặc ô tô tự động trên đường cao tốc.
Sự đổi mới đó sẽ giúp cuộc sống của người dân châu Âu trở nên dễ dàng hơn. Hơn nữa, tâm lý lạc quan sẽ thúc đẩy tinh thần kinh doanh tăng cao và khuyến khích người châu Âu chi tiêu nhiều hơn. Từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trở lại.
Nhưng thật không may, tất cả điều này có lẽ vẫn chỉ là “những phác thảo trên giấy”, ít nhất là ở thời điểm hiện tại.