Giá tiêu ngày 25/7 neo cao ở mốc 150.000 đồng/kg
Cập nhật giá tiêu
Tại thị trường trong nước
Ghi nhận mới nhất, giá tiêu hôm nay không ghi nhận thay đổi mới.
Theo đó, giá giao dịch hồ tiêu được ghi nhận tại hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông là 150.000 đồng/kg.
Hai tỉnh Gia Lai và Đồng Nai tiếp tục neo ở mức 149.000 đồng/kg.
Thương lái tại Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Phước lần lượt thu mua hồ tiêu với giá 144.000 đồng/kg và 148.000 đồng/kg.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: VNĐ/kg) |
Đắk Lắk |
150.000 |
- |
Gia Lai |
149.000 |
- |
Đắk Nông |
150.000 |
- |
Bà Rịa - Vũng Tàu |
144.000 |
- |
Bình Phước |
148.000 |
- |
Đồng Nai |
149.000 |
- |
Trên thị trường thế giới thế giới
Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) vào ngày 24/7 (theo giờ địa phương), giá giao dịch tiêu đen Lampung (Indonesia) tăng 0,14%, giá thu mua tiêu đen Brazil ASTA 570 và giá tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA duy trì ổn định so với ngày 23/7.
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 22/7 |
Ngày 23/7 |
% thay đổi |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
7.191 |
7.189 |
+0,14 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
7.125 |
7.125 |
0 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
7.500 |
7.500 |
0 |
Cùng thời điểm khảo sát, giá thu mua tiêu trắng Muntok tăng 0,15% và giá tiêu trắng Malaysia ASTA không có thay đổi mới.
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 22/7 |
Ngày 23/7 |
% thay đổi |
|
Tiêu trắng Muntok |
9.157 |
9.154 |
+0,15 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
8.800 |
8.800 |
0 |
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, với mức tăng từ 3.686 USD/tấn lên 5.727 USD/tấn, hồ tiêu là mặt hàng có mức tăng về giá xuất khẩu cao nhất trong số các mặt hàng nông sản trong nửa đầu tháng 7/2024. Khối lượng xuất khẩu hồ tiêu tăng 53% so với cùng kỳ năm trước, đạt 10.796 tấn, trị giá 61 triệu USD, tăng tới 137%.
Còn theo Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (Bộ Công Thương), Indonesia thu hoạch hồ tiêu vào tháng 7 với sản lượng dự kiến tốt ở hầu hết vùng trồng trọng điểm. Những cơn mưa rải rác trong giai đoạn phát triển có lợi cho việc hình thành trái tiêu. Mặc dù ước tính sản lượng tốt, nhưng có thể không ảnh hưởng nhiều đến giá vì các nhà đầu cơ đã cố gắng mua hết nguyên liệu có sẵn.
Theo số liệu, hàng năm Trung Quốc vẫn nhập khẩu khoảng 50 nghìn tấn hồ tiêu từ Việt Nam. Tuy nhiên, nửa đầu năm 2024, lượng hồ tiêu nhập khẩu từ Việt Nam của thị trường này giảm mạnh, chỉ đạt con số 7.453 tấn, giảm 85,2%.
Năm nay, tại vùng sản xuất hồ tiêu chính của Trung Quốc, tình trạng mất mùa cũng đáng lo ngại, giới đầu cơ đang găm hàng. Theo chuyên gia, rất có thể Trung Quốc và các nhà buôn châu Âu đang chờ thông tin và các đợt ra hàng mới từ vụ thu hoạch ở Indonesia.
Nếu vụ mùa ở quốc gia Đông Nam Á này kém thuận lợi, tình trạng sản lượng thấp và đầu cơ tại nội địa tại Trung Quốc kéo dài khiến họ phải tăng cường nhập khẩu mạnh trở lại hồ tiêu Việt Nam. Đây sẽ là động lực tăng trưởng cuối năm của giá tiêu Việt Nam.
Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA) nhận định, quy luật về giá hồ tiêu năm nay không giống như thường thấy các năm trước. Sản lượng hạt tiêu niên vụ 2023/2024 của Việt Nam sụt giảm khá nhiều so với niên vụ trước khiến nguồn cung ở thời điểm hiện tại cạn kiệt. Không chỉ ở trong nước, nguồn cung tiêu trên toàn cầu cũng đang khan hiếm do ảnh hưởng của El Nino. Về dài hạn, sản lượng tiêu của Việt Nam chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của thế giới trong vòng 5 năm tới.
Dù vậy, thị trường đang chờ đợi thông tin từ Hội nghị tổng kết tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu ngành hàng gia vị 6 tháng đầu năm 2024 và định hướng sản xuất, kinh doanh cho 6 tháng cuối năm 2024 của VPSA diễn ra cuối tháng 7 này, thông tin từ báo Công Thương.
Cập nhật giá cao su
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,62% lên mức 322,3 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,73% ở mức 14.545 nhân dân tệ/tấn.
Theo số liệu thống kê của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 5 tháng đầu năm 2024, Trung Quốc nhập khẩu trên 2,92 triệu tấn cao su (HS 4001, 4002, 4003, 4005), với trị giá 4,71 tỷ USD, giảm 15,3% về lượng và giảm 8,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Nga và Hàn Quốc là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su cho Trung Quốc. Trừ Thái Lan và Việt Nam, lượng cao su nhập khẩu từ các thị trường còn lại đều tăng so với cùng kỳ năm 2023, thông tin từ Bộ Công Thương Việt Nam.
Trong 5 tháng đầu năm 2024, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc với 506,43 nghìn tấn, trị giá 715,46 triệu USD, giảm 10,7% về lượng và giảm 7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Thị phần cao su Việt Nam chiếm 17,31% trong tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2024, cao hơn so với mức 16,4% của 5 tháng đầu năm 2023.
Về chủng loại nhập khẩu, Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, lượng nhập khẩu các chủng loại này đều có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, cao su tự nhiên chiếm 28,94% tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc; Cao su tổng hợp chiếm 67,25%; Phần còn lại là cao su tái sinh và cao su hỗn hợp.
Trung Quốc nhập khẩu 846,83 nghìn tấn cao su tự nhiên (HS 4001), trị giá 1,25 tỷ USD, giảm 19,3% về lượng và giảm 9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ các thị trường: Thái Lan, Bờ Biển Ngà, Malaysia, Việt Nam và Indonesia. Trừ Việt Nam và Malaysia, lượng cao su tự nhiên nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường còn lại đều giảm so với cùng kỳ năm 2023.