FDI Trung Quốc lên đầu bảng: mừng ít, lo nhiều
Theo Tổng cục Thống kê, về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), từ đầu năm đến ngày 20-2-2019 Việt Nam thu hút 514 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 2.444,9 triệu đô la Mỹ, tăng 25,1% về số dự án và 75,7% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018.
Trong hai tháng năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút FDI lớn nhất với số vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 1.874,4 triệu đô la, chiếm 76,7% tổng vốn đăng ký cấp mới.
Trong số 38 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong hai tháng đầu năm 2019, Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 588,9 triệu đô la, chiếm 24,1% tổng vốn đăng ký cấp mới. Tiếp đến là Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore...
Thực ra, kể từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế để thu hút vốn FDI, Trung Quốc hầu như không có tên trong tốp 10 quốc gia đầu tư vào Việt Nam. Nhưng gió đã đổi chiều, kể từ năm 2011 trở lại đây, vốn FDI Trung Quốc vào Việt Nam có sự thay đổi đáng kể và liên tục vươn lên trong vị trí xếp hạng, tăng về quy mô, thay đổi về hình thức, lĩnh vực, mở rộng về địa bàn.
Điển hình là từ năm 2015 trở lại đây, cùng với việc Việt Nam tham gia Hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Trung Quốc thường nằm trong tốp 10 các quốc gia đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam để đón đầu cơ hội thâm nhập thị trường béo bở này.
Mặc dù FDI từ Trung Quốc đang "ào ạt" đổ vào Việt Nam trên mọi lĩnh vực và là cơ hội để Việt Nam bổ sung thêm nguồn vốn cho phát triển kinh tế, nhưng cần hết sức cẩn trọng bởi uy tín của những nhà đầu tư này thường không được đánh giá cao.
Số liệu thống kê cho thấy, năm 2011 số vốn đăng ký của Trung Quốc (bao gồm Đài Loan) là 1,3 tỉ đô la thì đến năm 2017 đã tăng lên 2,7 lần, bình quân mỗi năm tăng khoảng 18%. Cơ cấu vốn Trung Quốc chiếm trong tổng số vốn đăng ký của khu vực FDI là 12%, sau Nhật Bản (30%), Hàn Quốc (28%) và Singapore (19%). Mặc dù FDI từ Trung Quốc đang "ào ạt" đổ vào Việt Nam trên mọi lĩnh vực và là cơ hội để Việt Nam bổ sung thêm nguồn vốn cho phát triển kinh tế, nhưng cần hết sức cẩn trọng bởi uy tín của những nhà đầu tư này thường không được đánh giá cao.
Các nhà đầu tư Trung Quốc chọn Việt Nam vì chiến lược của chính phủ nước này hiện nay có phần thay đổi, đó là khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài để thu lợi từ sở hữu, bù đắp cho những khó khăn ở trong nước nhằm làm tăng tổng thu nhập Quốc gia (GNI - Gross National Income) và cuối cùng là làm tăng tiết kiệm (saving) trong nước.
Cho đến nay, thực trạng kinh tế Trung Quốc đã được che đậy dưới lớp vải điều hào nhoáng với một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục trong nhiều năm, khiến nhiều người quên rằng tăng trưởng GDP không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất của Trung Quốc. Những ngờ vực về sức mạnh thực sự của nền kinh tế Trung Quốc xuất hiện ngày càng nhiều, khi hiệu quả sản xuất ngày càng đi xuống và điều này đồng nghĩa với tỷ lệ giá trị gia tăng trên giá trị sản xuất ngày càng giảm. Như vậy, tăng trưởng của Trung Quốc không thể đạt tốc độ như đã công bố, thậm chí thấp hơn số công bố khá nhiều. Hơn nữa kinh tế Trung Quốc là một nền kinh tế "công xưởng" mà ở đó phía cung dựa vào nhập khẩu khá nhiều và phía cầu dựa vào xuất khẩu. Khi nhập khẩu giảm cũng có nghĩa sản xuất giảm sút và phía cầu xuất khẩu giảm cũng tạo vòng xoáy cho việc sụt giảm GDP.
Khi cố gắng vượt qua khó khăn nội tại về kinh tế, Trung Quốc càng đẩy mạnh đầu tư, nhưng sự cố gắng này dường như đã tới hạn do nợ công ngày càng có xu hướng tăng cao.
Nghiên cứu về cấu trúc kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc cho thấy mặc dù hai nước có cấu trúc kinh tế tương đối giống nhau, nhưng mức độ lan tỏa từ các yếu tố của cầu cuối cùng đến sản lượng và giá trị gia tăng của Trung Quốc cao hơn của Việt Nam khá nhiều. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu gây ra bởi cầu cuối cùng nội địa của Trung Quốc thấp hơn so với Việt Nam, có nghĩa là mức độ tự sản xuất các sản phẩm phụ trợ làm đầu vào cho sản xuất của Trung Quốc cao hơn nhiều so với Việt Nam.
Nói cách khác, Trung Quốc và Việt Nam đều là sản xuất gia công, nhưng Trung Quốc đang ở cấp độ cao hơn, sản phẩm tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nhiều hơn. Một đồng xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam lan tỏa đến thu nhập của Trung Quốc 0,79 đồng; trong khi đó, 1 đồng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ lan tỏa đến thu nhập của Việt Nam có 0,47 đồng(1). Như vậy, có thể thấy trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc thì phía Việt Nam không được hưởng lợi bằng. Việc doanh nghiệp FDI Trung Quốc nhập khẩu thiết bị và công nghệ của nước này không chỉ khiến thâm hụt thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc tăng cao mà còn gia tăng sự ô nhiễm, lượng phát thải (CO2) do hầu hết các ngành ở Trung Quốc đều thải CO2 cao hơn Việt Nam. Điều này ngụ ý rằng khi Việt Nam thu hút FDI từ Trung Quốc thì gần như đồng nghĩa với nhập khẩu nhiều hơn nguyên liệu đầu vào và cả ô nhiễm!