|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

World Bank dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,1% trong năm 2024

13:23 | 26/08/2024
Chia sẻ
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), nhờ sự phục hồi xuất khẩu các mặt hàng chế biến, chế tạo, du lịch, tiêu dùng và đầu tư, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng 6,1% năm 2024 và 6,5% trong năm 2025 và 2026, cao hơn so với mức hơn 5% của năm 2023.

Lễ công bố Báo cáo Điểm lại – Cập nhật Tình hình Kinh tế Việt Nam (Nguồn: Nguyễn Ngọc). 

Sáng ngày 26/8 tại Ngân hàng Thế giới (World Bank - WB) đã công bố Báo cáo Điểm lại – Cập nhật Tình hình Kinh tế Việt Nam. 

Theo bà Dorsati Madani, Chuyên gia kinh tế cao cấp của WB, trong nửa đầu năm, GDP của Việt Nam tăng trưởng 6,4%, cao hơn mức tăng trưởng 5% trong nửa đầu năm 2023, nhờ xuất khẩu các mặt hàng chế tạo chế biến được phục hồi, cũng như mức đầu tư và tiêu dùng cao hơn.

Cụ thể, xuất nhập khẩu hàng hóa tăng nhanh hơn so với dự báo cho nửa đầu năm 2024, nhờ sức cầu bên ngoài mạnh hơn, trong đó xuất khẩu và nhập khẩu tăng lần lượt 16,9% và 17% so cùng kỳ năm trước.

Trên phương diện sản xuất, sản lượng công nghiệp chế tạo chế biến tăng trưởng 7% trên nền xuất phát điểm thấp, là động lực tăng trưởng cho cả năm, đóng góp đến 1/4 tăng trưởng GDP.

Trong khi dịch vụ đóng góp trên 1/2 cho tăng trưởng GDP, tăng đến 7,4%. Ngoài ra, các dịch vụ liên quan đến xuất khẩu như vận tải và kho bãi được hưởng lợi do xuất khẩu hàng hóa phục hồi.

Đồng thời, lĩnh vực nhà hàng khách sạn cùng tăng trở lại, khi số lượt du khách quốc tế đạt 8,8 triệu lượt trong tháng 6, cao hơn lượng du khách ghi nhận trước đại dịch COVID.

Nhiều yếu tố phục hồi ở mức thấp

Tuy vậy, bà Dorsati Madani, cũng nhận định rằng dù hồi phục nhưng nền kinh tế vẫn chưa quay lại lộ trình tăng trưởng như trước đại dịch. Trong đó, chi tiêu của người tiêu dùng vẫn dừng ở mức thấp hơn so với trước đại dịch.

Thể hiện, doanh số bán lẻ tăng 8,8% trong nửa đầu năm 2024, nhờ doanh số bán hàng hóa tiếp tục duy trì mức tăng trưởng ổn định kể từ cuối năm 2022, nhưng vẫn thấp hơn bình quân ghi nhận trước đại dịch (11,6%). 

Trong khi tăng trưởng thu nhập thực vẫn yếu ở mức 2,5% so cùng kỳ năm trước vào tháng 6, tương đương với tốc độ tăng bình quân hàng năm ở mức 2,7% kể từ năm 2022 - nhưng thấp hơn xu hưởng trước đại dịch (8,4%). 

"Do đó, nhu cầu đối với các dịch vụ và mặt hàng không thiết yếu, như xe hơi, thiết bị gia dụng, du lịch hay nâng cấp nhà ở văn ở mức thấp, cho thấy niềm tin của người tiêu dùng vẫn duy trì ở mức thấp",  bà Dorsati Madani đánh giá. 

Ngoài ra, tăng trưởng đầu tư của khu vực tư nhân có cái thiện nhưng vẫn thấp hơn so với mức tăng trưởng trước đại dịch COVID-19.

Cụ thể, tổng vốn đầu tư tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm 2024, từ mức 4,1% so với cùng kỳ năm trước trong nửa đầu năm 2023, nhưng thấp hơn so với bình quân trước đại dịch COVID là 7,1%.

Tương tự, đầu tư của khu vực tư nhân trong nước - đóng góp gần 60% cho tổng vốn đầu tư - đóng góp 3,9% cho tăng trưởng trong nửa đầu năm 2024, thấp hơn mức bình quân hàng năm là 4,7% trong giai đoạn 2017 - 2019.

Trong khi đó, mức tăng của đầu tư công chững lại còn 4% trong nửa đầu năm 2024, so với mức 20,5% trong nửa đầu năm 2023.

Cơ hội và rủi ro ở thể cân bằng

Về triển vọng, ông Sebastian Eckardt, Trưởng ban Kinh tế vĩ mô, Thương mại và Đầu tư khu vực Đông Á Thái Bình Dương của WB cho rằng, kinh tế Việt Nam được nhìn nhận là tích cực, với cơ hội và rủi ro nhìn chung ở thể cân bằng với dự báo tăng trưởng 6,1% trong năm 2024, sau đó lên đến 6,5% trong các năm 2025 - 2026. 

Về cơ hội, WB cho rằng, trong điều kiện xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng và bất động sản có dấu hiệu phục hồi (sau khi giải quyết được tình trạng đóng băng thị trường trái phiếu doanh nghiệp và Luật đất đai có hiệu lực từ tháng 8), thì nhu cầu trong nước sẽ vững lên vào nửa cuối năm 2024 khi tâm lý nhà đầu tư và người tiêu dùng được cải thiện.

Cùng với đó, cân đối tài khoản vãng lai được dự báo vẫn duy trì thặng dư nhỏ, đồng thời Chính phủ đang quay lại củng có cân đối ngân sách, còn lạm phát dự báo sẽ giảm từ 4,5% năm 2024 xuống còn 3,5% năm 2026. 

Tuy vậy, một trong những rủi ro chính đối với tăng trưởng kinh tế là yếu tố bất định của tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể thấp hơn dự kiến, nhất là tăng trưởng của những đối tác thương mại lớn của Việt Nam như Mỹ, Liên minh Châu Âu, và Trung Quốc.

"Những diễn biến đó có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu các mặt hàng chế tạo chế biến của Việt Nam và ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng", ông Sebastian Eckardt quan ngại. 

Ngoài ra, đối với trong nước, sự mất ổn định của kinh tế vi mô có thể có tác động tiêu cực đến niềm tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư, ảnh hưởng đến tiêu dùng và đầu tư.

Thị trường bất động sản có thể hồi phục lâu hơn dự kiến, tác động xấu đến đầu tư của khu vực tư nhân. Nếu chất lượng tài sản của các ngân hàng tiếp tục yếu đi, năng lực cho vay của các ngân hàng có thể bị suy giảm.

Theo ông Sebastian Eckardt, là một trong những quốc gia có nguy cơ dễ tổn thương nhất với biến đổi khí hậu trên thế giới, thiên tại liên quan đến khí hậu ngày một gia tăng cũng có thể là một rủi ro tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.

Do đó, cần đẩy mạnh đầu tư công để vừa kích cầu ngắn hạn, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt hạ tầng - đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng, giao thông, logistics - vốn đang là những nút thắt cản trở tăng trưởng. Bên cạnh đó cần theo dõi sát chất lượng tài sản của các ngân hàng do nợ xấu gia tăng.

"Để duy trì đà tăng trưởng từ nay đến cuối năm và các năm tiếp theo, các cấp có thẩm quyền cần tiếp tục cải cách thể chế, đẩy mạnh đầu tư công, đồng thời quản lý, giám sát các rủi ro trong thị trường tài chính", ông Sebastian Eckardt khuyến nghị. 

Ngọc Bảo

Data Talk tháng 9: 'Có những lần suy thoái khiến thị trường chứng khoán giảm 80 - 90%'
Theo ông Bùi Văn Huy, Giám đốc Công ty Chứng khoán DSC, chi nhánh TP HCM, có những lần suy thoái khiến thị trường giảm 80 - 90%, ngay cả cuộc suy thoái kỹ thuật cũng khiến thị trường rơi 20 - 30%. Thị trường chứng khoán Việt Nam khó tránh khỏi ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế Mỹ.