|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Doanh nghiệp

'Vốn mỏng' và những hệ lụy

16:22 | 16/06/2019
Chia sẻ
Thực tế đang xuất hiện tình trạng nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), các doanh nghiệp có giao dịch liên kết sử dụng vốn vay thay vì vốn chủ sở hữu (tình trạng vốn mỏng) trong sản xuất, kinh doanh. Việc này gây nên tình trạng thiếu lành mạnh trong kinh doanh cũng như "tiếp tay" cho hoạt động chuyển giá.

TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, Đại học Fulbright Việt Nam cho biết, khi cơ cấu vốn của doanh nghiệp chủ yếu được tài trợ bằng nợ thay vì vốn chủ sở hữu thì đó là tình trạng vốn mỏng. Tác dụng "lá chắn thuế" của lãi vay khiến cho các công ty rất thích đi vay nợ để tài trợ đầu tư thay vì phát hành thêm vốn cổ phần. Lá chắn thuế là khoản giảm thu nhập chịu thuế của một cá nhân hay doanh nghiệp đạt được thông qua những khoản được phép khấu trừ.

'Vốn mỏng' và những hệ lụy - Ảnh 1.

Dây chuyền sản xuất hàng may mặc tại Công ty TNHH Hana Kovi Việt Nam (100% vốn đầu tư của Hàn Quốc) tại Bắc Giang. Ảnh: Danh Lam/TTXVN

Theo Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, số lượng doanh nghiệp FDI hiện chỉ chiếm 3% tổng số doanh nghiệp trong nước, nhưng quy mô tổng tài sản lên tới 5 triệu tỷ đồng. Đây là con số rất lớn khi so sánh quy mô tổng tín dụng của các tổ chức tín dụng chỉ hơn 7 triệu tỷ đồng.

Trong tổng tài sản 5 triệu tỷ đồng này, tổng vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp FDI là 1,5 triệu tỷ đồng, bao gồm cả vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và phần vốn đi vay.

Qua kiểm soát 140 doanh nghiệp có vốn vay gấp trên 4 lần vốn chủ sở hữu thì 100% số doanh nghiệp này đều là doanh nghiệp FDI, cá biệt có doanh nghiệp tỷ lệ này gấp hàng trăm lần như Samsung Display, Capitalland Tower... Trong khi đó, cổ tức chi cho các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam rất lớn, khoảng 10 tỷ USD.

Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh cho rằng, một trong những hành vi tương đối phổ biến của các doanh nghiệp có vốn FDI trong thời gian qua là thực hiện chuyển giá thông qua hình thức vay vốn từ bên liên kết nước ngoài và trả lãi suất vay vốn rất cao.

Các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất hợp lý như: dùng nguồn vốn vay từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố định và tài sản đầu tư dài hạn mà không tăng vốn góp hay vốn chủ sở hữu nhằm đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao như: chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi vay...

Với cách thức này, lợi nhuận từ doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam đã được chuyển sang cho bên liên kết tại nước ngoài có mức thuế suất thấp hơn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam để được hưởng mức thuế suất thấp.

Hiện nay, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam chỉ quy định không tính vào chi phí hợp lý, được trừ đi khi xác định thu nhập chịu thuế đối với phần chi trả lãi tiền vay vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (trừ tổ chức tín dụng) vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, mà không khống chế khoản chi phí lãi tiền vay đối với trường hợp khoản vay vượt quá nhiều lần vốn chủ sở hữu.

Vì vậy, có nhiều doanh nghiệp có khoản vay vượt gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, đặc biệt là doanh nghiệp FDI vay vốn từ công ty mẹ, công ty liên kết với mức vay lớn, phải trả lãi lên đến vài nghìn tỷ đồng/năm dẫn đến thua lỗ.

Theo Bộ Tài chính, trong 3 năm gần đây, tỷ lệ doanh nghiệp FDI báo lỗ là trên 50%, dẫn đến tình trạng chuyển giá ngày càng phức tạp.

PGS.TS Lê Xuân Trường, Trưởng khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính nhìn nhận, đã có rất nhiều trường hợp công ty mẹ ở nước ngoài lựa chọn đầu tư vốn chủ sở hữu thấp nhưng lại tài trợ vốn hoạt động cho công ty con bằng hình thức cho vay vốn. Đây chính là một hình thức chuyển giá của doanh nghiệp FDI.

Điều này dẫn đến tình trạng thất thu ngân sách và tạo ra môi trường kinh doanh không lành mạnh. Ngoài ra, tình trạng này còn liên quan đến sự an toàn tài chính trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp.

Thực tế này diễn ra khá phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới chứ không chỉ ở Việt Nam. Vì thế, Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu (OECD) đã có những khuyến cáo về các biện pháp pháp lý cần áp dụng để hạn chế tình trạng vốn mỏng.

TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, việc sử dụng nợ vay quá mức không chỉ làm tăng rủi ro tài chính mà còn làm phát sinh rủi ro đạo đức. Để kiểm soát tình trạng này, một số quốc gia đưa ra giới hạn trần vay nợ so với vốn tự có. Quy định này có bản chất tựa như quy định về hệ số an toàn vốn tối thiểu áp dụng cho các ngân hàng nhưng đơn giản hơn.

Văn Giáp