[LIVE]: Bị cáo Đinh La Thăng: Những căn cứ xác thực, diễn biến tại tòa chưa được VKS cập nhật, xem xét
Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm ông Đinh La Thăng và đồng phạm sáng 11/5, sau khi nghe quan điểm của các luật sư Phan Trung Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Đào Hữu Đang bào chữa cho mình, bị cáo Đinh La Thăng cho biết nhất trí với quan điểm bào chữa của các luật sư.
Ông Thăng bổ sung thêm: Tôi đã hết sức lắng nghe quan điểm luận tội của VKS, thực sự cũng xin báo cáo thật sau khi tòa Hà Nội tuyên tôi 13 năm tù về tội Cố ý làm trái, tôi rất đắn đo, có nên kháng cáo không? Tôi thấy kinh nghiệm qua 2 lần ra tòa càng nói càng bị buộc tội thêm. Càng nói càng bị cho rằng quanh co chối tội, không thành khẩn bởi tại tòa sơ thẩm thông qua thẩm vấn, tranh tụng, nhiều căn cứ xác đáng, trình bày của luật sư nhưng không được HĐXX xem xét.
Bị cáo Đinh La Thăng tại tòa. |
Tôi kháng cáo với nhận thức coi đây là cơ hội để làm sáng tỏ, những quy kết chưa được xem xét ở sơ thẩm thì tôi hy vọng HĐXX phúc thẩm xem xét.
Trong đơn kháng cáo của tôi, tôi kính mong HĐXX xem xét toàn diện khách quan, nguyên nhân, bối cảnh xảy ra vụ án.
Thứ nhất, tôi hết sức cảm ơn VKS đã đề nghị giảm án cho nhiều bị cáo là đồng nghiệp, cấp dưới của tôi trong vụ án này: Thực, Khánh.
Tuy nhiên, đối với phần cáo buộc tội với cá nhân tôi, tôi rất băn khoăn, không đồng tình với quan điểm buộc tội của VKS. Bởi những căn cứ xác thực, diễn biến tại tòa chưa được VKS cập nhật, xem xét đánh giá. Phần buộc tội với cá nhân tôi gần như nguyên văn với bản án sơ thẩm, rõ ràng không có sự cập nhật tình tiết mới. Tôi cảm nhận hình như với cá nhân tôi tất cả những gì không thuộc trách nhiệm của tôi tôi cũng phải gánh. Gần như chỗ nào cũng là Đinh La Thăng chỉ đạo. Hình như không có những cái đó thì tôi không bị tội hay sao ấy.
Tôi đề nghị xem xét trách nhiệm cho tôi theo đúng chức năng quyền hạn điều lệ, tổ chức tập đoàn quy định. Những gì thuộc thẩm quyền của tôi, tôi có sai phạm thì tôi chịu, những cái khác thì không.
Thứ 2, bối cảnh thực hiện dự án là thực hiện chủ tưởng phát huy nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế. Để thực hiện việc này, chính phủ cho phép PVN từ 2006 đều cho phép dầu khí chỉ định đơn vị thành viên của tập đoàn được tham gia. Đây là chủ trương không phải nhất thời. Không riêng PVC mà tất cả các đơn vị thành viên được chỉ định thầu.
Cáo buộc tôi cứu PVC đang trong giai đoạn khó khăn là không có căn cứ. Tôi không tài thánh nào mà từ 2009 đã biết khó khăn 2011 của PVC để 2011 chỉ định thầu cho PVC làm.
Theo quy định của luật là HĐQT của chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. PVPower là donah nghiệp hạch toán độc lập, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Khi tôi chuyển công tác rồi, ban tổng giám đốc, HĐQT PVN có đánh giá lại PVC, vẫn khẳng định PVC đủ năng lực làm tổng thầu. Lúc đó không còn trách nhiệm gì của tôi. Cáo buộc tôi chỉ định thầu, xin HĐXX, VKS xem xét cho tôi.
Về ký hợp đồng, tôi đồng tình với các luật sư bào chữa cho tôi và các bị cáo khác. Đây có thể nói là khởi nguồn. Nếu không có hợp đồng này thì không ai phải ra tòa. Việc 2 đơn vị này hoàn toàn tự nguyện ký kết với nhau, chứng từ tài liệu đưa ra hoàn toàn là sự bàn bạc của PVPower vậy mà vẫn gắn tôi chỉ đạo ký hợp đồng. Các bị cáo cũng khai tôi không chỉ đạo. HĐXX có thể hỏi nhân chứng Vũ Huy Quang để khai báo tôi và anh Thực có chỉ đạo như vậy không?
HĐXX: sẽ xem xét và đánh giá.
Ông Thăng: Xin tòa cho tôi nói thêm, thực tiễn tôi không chỉ đạo hợp đồng, VKS có thể hỏi anh Quang xem tôi có ép buộc, có chỉ đạo không.
Vấn đề hợp đồng có hiệu lực hay không hiệu lực? Hợp đồng này chỉ có PVC biết vì họ đưa ra căn cứ pháp lý giả. Ra tòa tôi có hỏi anh Quang có chuyện đó không, anh Quang nói có tôi mới biết.
Thứ 3, nếu anh Quang báo cáo Hợp đồng không có căn cứ thì 13/5 anh Quang vẫn đề nghị ký chuyển đổi chủ thể hợp đồng.
HĐXX: Cái này tòa sẽ xem xét.
Ông Thăng: 16/6, anh Thực là TGĐ, lúc đó có nhận được văn bản báo cáo của anh chương. Anh Chương gửi 15/6. Đến 16/6 anh Thực mới nhận được và biết hợp đồng thiếu căn cứ pháp lý nên xử lý luôn. Tôi thì không biết gì về hợp đồng 33. Đề nghị VKS xem xét giúp cho.
Điều nữa là VKS không nêu tôi có yêu cầu tiền tạm ứng chỉ được sử dụng cho dự án Thái Bình 2.
Vấn đề tạm ứng tiền, trong cáo buộc của VKS cáo buộc tôi chỉ đạo tạm ứng. Tôi khẳng định không có chỉ đạo cụ thể nào và cũng không thuộc thẩm quyền của tôi. A Chương nói không chi tạm ứng được vì hợp đồng ký tạm ứng 6%.
Đề nghị HĐXX đánh giá cho những lần chuyển tiền trước kết luận của tôi. Trong này có chứng cứ anh Chương khai có cuộc họp tại phòng làm việc của tôi. Ngày đó tôi đi công tác. Ang Sơn, Khánh khai trong cuộc họp tôi đôn đốc chuyển tiền là không có anh Chương.
Về cách tính thiệt hại, ông Thăng cho rằng việc giám định viên nêu thì tài sản của doanh nghiệp hình thành trên nhiều nguồn khác nhau, tương ứng với nó là tiền thu về để ở 1 số tài khoản: tài khoản thanh toán, tài khoản gửi tiết kiệm… Khi mang tiền ra thanh toán không thể tính được nó là tiền của quỹ dầu…
Bị cáo Thăng không đồng tình tính quy kết bị cáo phải bồi thường 30 tỷ.
Luật sư Đỗ Ngọc Quang bào chữa cho bị cáo Ninh Văn Quỳnh:
Về trách nhiệm hình sự, ông Quỳnh có 4 tình tiết giảm nhẹ, xin HĐXX xem xét:
Bị cáo Quỳnh đã ngăn chặn, giảm bớt hậu quả của tội phạm. Điều này thể hiện qua việc anh Thăng đề nghị tăng mức tạm ứng lên cho PVC. Quỳnh thấy như thế không hợp lý nên đề xuất với Sơn chỉ tạm ứng 6% theo ghi nhận trong HĐ 33.
Liên quan tạm ứng tiền, trong các bản khai, Quỳnh nêu rõ do áp lực của cấp trên, buộc phải làm, không thể không làm, kính đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không phải do mình gây ra.
Liên quan 2 công văn của tập đoàn dầu khí, công văn 38 và 2553 gửi tòa, VKS với nội dung đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo: Phùng Đình Thực, Ninh Văn Quỳnh.
Về trách nhiệm dân sự, tòa buộc Quỳnh phải bồi thường 6 tỷ đồng, bị cáo Quỳnh đề nghị miễn hoặc giảm bồi thường. Cái này chúng tôi cho rằng liên quan tới kết luận giám định. Giám định viên Bộ Tài chính tự nâng số tiền từ 1.080 tỷ lên 1.115 tỷ. Anh ấy trả lời rằng là anh ấy tính toán lại. Cái này vi phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Liên quan kết luận giám định, toàn những câu điều kiện không có thật: “nếu, nếu”. Rõ ràng kết luận giám định có vấn đề, không được khách quan. Anh giám định viên BTC cũng không căn cứ vào văn bản của Ngân hàng Nhà nước mà tính theo cách của mình là không đúng.
Đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo Quỳnh, miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi thường.
Bị cáo Ninh Văn Quỳnh: Nhất trí với quan điểm của luật sư.
Luật sư Đinh Anh Tuấn bào chữa cho bị cáo Phùng Đình Thực:
Sau khi nêu tóm tắt những quy kết của bản án sơ thẩm đối với thân chủ của mình, luật sư Tuấn cho rằng dễ nhận thấy bản án sơ thẩm hoàn toàn bỏ qua, chưa đánh giá các tài liệu, chứng cứ có giá trị gỡ tội cho bị cáo Thực, mặc dù các tài liệu, chứng cứ đó đã được luật sư của bị cáo giao nộp tại tòa. Những tình tiết có lợi cho bị cáo Thực cũng bị bỏ qua chưa được xem xét, đánh giá.
Luật sư khẳng định bị cáo Thực không nhận được cả 4 văn bản: công văn 3492, 3564… Lí do bởi nơi nhận là văn phòng PVN đã xử lý các văn bản này theo quyết định phân công phân quyền của ban TGĐ PVN và theo Quy chế công tác văn thư của PVN. “Trước ngày 16/6/2011, bị cáo Thực hoàn toàn không biết hợp đồng số 33 chưa đủ điều kiện pháp lý”, Luật sư Tuấn nói.
Luật sư Tuấn dẫn chứng: Lời khai của ông Vũ Huy Quang không phù hợp với lời khai của bị cáo Phùng Đình Thực cũng như các bị cáo khác tại phiên tòa sơ thẩm cũng như tại tòa phúc thẩm; lời khai của ông Quang không phù hợp với Thông báo kết luận cuộc họp số 2752 ngày 4/4/2011; nội dung thông báo cho thấy Chủ tịch HĐTV Đinh La Thăng chỉ đạo phải rà soát để ký lại HĐ 33 còn thiếu nhiều hồ sơ, chưa có điều khoản về tạm ứng cũng như chưa có hiệu lực thi hành…
Cũng trong phần này, Luật sư Tuấn khẳng định bị cáo Thực không chỉ đạo tạm ứng sai quy định cho Ban quản lý dự án. Về ý thức chủ quan, bị cáo Thực không giúp sức cho hành vi sử dụng vốn sau mục đích mà ngược lại bị cáo đã ngăn chặn và khắc phục hậu quả của hành vi này. Bị cáo Thực hoàn toàn không có bất cứ lời nói, hành động nào cho phép nhận định rằng bị cáo đồng tình, giúp sức để PVC sử dụng vốn sai mục đích.
Về việc bị cáo Thực tự nhìn nhận trách nhiệm của mình, với tư cách TGĐ PVN, như tôi đã trình bày, xét cả hành vi khách quan và ý thức chủ quan, bị cáo Thực không có hành vi cố ý. Bị cáo Thực kêu oan về hành vi này không phải với tâm lý chối tội, đổ lỗi cho cấp dưới mà dựa trên các tài liệu chứng cứ, khi đã thấy rõ sai phạm đến đâu thì bị cáo sẽ chịu trách nhiệm đến đấy.
Tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Thực đã thẳng thắn thừa nhận với cương vị TGĐ PVN, bị cáo nhận thấy bản thân có sơ suất trong việc kiểm tra, giám sát dự án Thái bình 2 chưa thật sát sao. Khi cấp dưới không báo cáo sai phạm, bị cáo thực đã tin rằng mọi việc đang diễn ra bình thường để rồi tập trung giải quyết những lĩnh vực, dự án khác.
Qua việc bị cáo Thực chỉ kêu oan về hành vi cố ý làm trái và đã nhận ra phần thiếu trách nhiệm của mình với hành vi thiếu trách nhiệm. Tôi kính đề nghị HĐXX xem xét và ghi nhận cho bị cáo khi xác định tội danh và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Luật sư đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Thực không phạm tội cố ý làm trái. Căn cứ hồ sơ vụ án và lời khai nhận trách nhiệm của bị cáo, đề nghị HĐXX minh định cho bị cáo phạm tội hay không phạm tội. Nếu xác định bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự, kính đề nghị HĐXX giảm hình phạt cho bị cáo đến mức thấp nhất. Trong trường hợp HĐXX xác định bị cáo Thực phải chịu trách nhiệm hình sự, khi áp dụng hình phạt với bị cáo Thực, đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: người phạm tội đã lập công chuộc tội, người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; người phạm tội thành khẩn khia báo báo; có nhiều thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu…
Luật sư còn thông tin trong sang nay gia đình ông Thực đã làm thủ tục đặt cọc bán nhà, đã nộp 1 tỷ đồng cho cơ quan thi hành án, đây là tinh thần trách nhiệm của bị cáo Thực.
Bị cáo Thực: Nhắc tới bối cảnh lúc đó, hàng chục dự án trong và ngoài nước đang được thực hiện. Do đó, ông Thực nói TGĐ cũng không thể nắm hết được vì phân công phân quyền cho TGĐ rất là rộng. Theo ông Thực, trong phân công lãnh đạo ông không được phân công trực tiếp dự án Thái Bình 2.
Ông Thực khẳng định hồ sơ chứng cứ chứng minh ông không chỉ đạo PVC và PVPower ký HĐ số 33. Đối với việc cấp tiền cho ban quản lý, tất cả những quyết định cấp vốn, phiếu chi ông không ký mà phó TGĐ phụ trách tài chính thực hiện.
Ông Thực đề nghị HĐXX xem xét lại quy kết ông đã tạm ứng sai quy định.
Về trách nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại, ông Thực bổ sung, cho rằng thời điểm xảy ra sai phạm, bị cáo thực sự không biết và ông không cố ý làm trái. Tuy nhiên với tư cách TGĐ, ông Thực thấy đã có thiệt hại cho đất nước nên bản thân thấy có một phần trách nhiệm nên bồi thường.