|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

HSBC: Việt Nam nổi lên như một trung tâm xuất khẩu bên ngoài Nhật Bản

17:56 | 06/12/2023
Chia sẻ
Theo HSBC, ban đầu các công ty Nhật Bản bị thu hút bởi giá lao động cạnh tranh ở Việt Nam. Sau đó, họ tiếp tục đầu tư và mở rộng hoạt động và coi Việt Nam như một trung tâm xuất khẩu bên ngoài Nhật Bản.

Theo báo cáo từ Ngân hàng HSBC, thương mại song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản đã tăng trưởng hơn 90 lần trong vòng ba thập kỷ qua nhờ những nỗ lực tích cực trong tự do hóa thương mại, giúp Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam. Tương tự, tầm quan trọng của Việt Nam trong thương mại của Nhật Bản cũng tăng lên so với các nước ASEAN khác.  

Mặc dù thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản giảm dần do tỷ trọng của Mỹ và Trung Quốc tăng lên, tổng thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam đã gia tăng với tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) đạt mức 15,2% kể từ năm 1990.

Kết quả ấn tượng này có được là nhờ Việt Nam gia nhập WTO từ năm 2007, sau đó là tới Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện giữa Nhật Bản với ASEAN (ASEAN-Japan Comprehensive Economic Partnership – AJCEP) có hiệu lực từ năm 2008 và Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (Vietnam-Japan Economic Partnership Agreement – VJEPA) có hiệu lực từ năm 2009.

Thị phần của Việt Nam trong xuất khẩu sang Nhật Bản gia tăng

Thị phần của Việt Nam trong xuất khẩu khối ASEAN-6 sang Nhật Bản đã gia tăng đáng kể. (Nguồn: HSBC).

Tổng thương mại vượt ngưỡng 47 tỷ USD trong năm 2022 khiến Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam, phản ánh mối quan hệ kinh tế năng động giữa hai nước.

Ngay cả trong nội khối ASEAN, Việt Nam cũng thâm nhập sâu vào các hoạt động thương mại của Nhật Bản. Mặc dù thị phần của ASEAN trong thương mại của Nhật Bản duy trì ổn định ở mức dưới 15%, Việt Nam đã không ngừng gia tăng tầm quan trọng bên trong khối ASEAN.   

Một số nhóm mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu Việt Nam sang Nhật Bản gồm: Điện tử tiêu dùng/máy móc/vận tải (35%), dệt may/giày dép (26%) và nguyên liệu thô (18%) như gỗ và nhựa.

Trên thực tế, Việt Nam nổi lên như một quốc gia có kim ngạch xuất khẩu điện thoại thông minh lớn sang Nhật Bản bắt đầu vào năm 2016 và 2017, phản ánh sự chuyển dịch hoạt động sản xuất điện thoại thông minh ra nước ngoài của các tập đoàn công nghệ lớn của Hàn Quốc.

Kim ngạch xuất khẩu điện thoại thông minh từ Việt Nam sang Nhật Bản ngày càng gia tăng. (Nguồn: HSBC).

Xuất khẩu điện thoại của Việt Nam sang Nhật đã tăng đáng kể trong giai đoạn này, vượt lên cả tỷ trọng của Hàn Quốc . Năng lượng, một thời chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của Việt Nam (17% trong năm 2013) đã giảm, phù hợp với xu hướng chuyển dịch của Việt Nam sang nhập khẩu ròng về năng lượng.

Một số lĩnh vực xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nhu cầu của Nhật Bản hơn so với các lĩnh vực khác. Chẳng hạn, Nhật Bản từng là điểm đến chính của phụ tùng ô tô và hóa chất xuất khẩu từ Việt Nam. Mặc dù giảm dần qua thời gian, đây vẫn là nhóm mặt hàng có thị phần lớn vào khoảng 20%. Tương tự đối với dây điện và cáp điện, Nhật Bản là điểm đến xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam đối với nhóm hàng này.

Việt Nam được coi như trung tâm xuất khẩu bên ngoài Nhật Bản

Cơ hội cũng không chỉ nảy nở trong việc gia tăng xuất khẩu các sản phẩm chủ lực hiện đang luân chuyển thương mại. Nhật Bản còn là nhà cung cấp vốn FDI lớn thứ ba của Việt Nam và là nước cung cấp vốn hỗ trợ phát triển chính thức (official development assistance – ODA) lớn nhất.

Về đầu tư, Nhật Bản được biết tới là nhà đầu tư trực tiếp chính ở ASEAN. Riêng đối với Việt Nam, Nhật Bản là nguồn FDI lớn thứ ba, đạt gần 70 tỷ USD trong năm 2022, chỉ sau Hàn Quốc và Singapore.

Nhật Bản hiện là nhà đầu tư FDI lớn thứ 3 của Việt Nam. (Nguồn: HSBC).

Để bổ sung cho chuỗi cung ứng hiện tại, Nhật Bản đã dầu tư chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất với các công ty đa quốc gia như Panasonic và Canon thành lập cơ sở sản xuất từ rất sớm.

"Ban đầu, các công ty Nhật Bản bị thu hút bởi giá lao động cạnh tranh ở Việt Nam. Sau đó, họ tiếp tục đầu tư và mở rộng hoạt động trong khu vực như một trung tâm xuất khẩu bên ngoài Nhật Bản", báo cáo từ HSBC nêu rõ.

Xu hướng này vẫn còn tiếp diễn với nhiều cơ hội mới xuất hiện đặc biệt trong các mảng giá trị công thêm cao hơn như bán dẫn. FDI sản xuất giá trị cộng thêm cao hơn đến từ các công ty bán dẫn nước ngoài lớn sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực để tạo cơ hội cho các công ty Nhật Bản xử lý các quy trình sản xuất phức tạp hơn ở nước ngoài.

Nhật Bản là quốc gia cung cấp vốn hỗ trợ phát triển nước ngoài (vốn ODA) lớn nhất của Việt Nam. Đến nay, Nhật Bản đã cung cấp hơn 3.000 tỷ yên vốn ODA cho Việt Nam đưa Việt Nam trở thành một trong 5 quốc gia nhận nhiều vốn ODA nhất từ Nhật Bản.

Hầu hết các khoản vay này đều được dùng vào mục đích phát triển hạ tầng thiết yếu như sân bay quốc tế Nội Bài và cầu Nhật Tân. Với thời hạn ưu đãi, thời điểm đáo hạn dài (thường rơi vào khoảng 30 - 40 năm) và lãi suất thấp (thường là 0,5 - 1,0%), những khoản vay phát triển này đóng vai trò lớn trong tạo điều kiện cho tăng trưởng gần đây của Việt Nam.

Các chuyên gia từ HSBC cũng chỉ ra một lĩnh vực quan trọng khác cũng đáng nhấn mạnh ở đây là dòng kiều hối từ Nhật Bản về Việt Nam đóng vai trò như một nguồn thu nhập ngoại tệ ổn định quan trọng. Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc là ba điểm đến cho xuất khẩu lao động của Việt Nam.

Một yếu tố thúc đẩy dòng kiều hối là chương trình đào tạo thực tập sinh ngành công nghệ của Nhật Bản cho phép lao động nước ngoài ở lại tối đa năm năm để phát triển kỹ năng cần thiết làm hành trang về nước. Nguồn thực tập sinh lớn nhất cho chương trình này đến từ Việt Nam, chiếm hơn nửa tổng thực tập sinh công nghệ.

Hạ An

Vàng, đô và lãi suất: Ý nghĩa như thế nào với kinh tế Việt Nam?
Tỷ giá USD/VND đã tăng 4,5% so với đầu năm, cao hơn 1% so với mức mất giá bình quân dưới 3,5% trong gần 1 thập kỷ. Điều này đã gây sức ép lớp lên các nhà điều hành phải đưa ra một loạt các chính sách kết hợp nhằm ngăn chặn sự giảm giá của đồng VND, tạo ra những tác động nhất định lên thị trường tài chính.