Hai yếu tố gia tăng khả năng chống chịu của kinh tế Việt Nam trước COVID-19
"Việt Nam có thành tích gần như độc nhất vô nhị trong khủng hoảng COVID-19"
Trong Báo cáo Điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam, ấn phẩm tháng 12/2020, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng Việt Nam "có thành tích gần như độc nhất vô nhị trong khủng hoảng COVID-19".
WB nhận định Việt Nam đang kiểm soát rất tốt đại dịch COVID-19. Số ca nhiễm và tử vong chỉ ở mức tối thiểu, chỉ xuất hiện một vài ca nhiễm trong cộng đồng kể từ giữa tháng 9. Cho dù phải thực hiện những biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt và đối mặt với một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu chưa có tiền lệ, nền kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng 2,8% trong năm 2020.
Tuy thấp hơn khoảng 4,2 điểm phần trăm so với thành tích những năm gần đây, Việt Nam vẫn nằm trong vùng tăng trưởng dương khi nền kinh tế thế giới dự kiến suy giảm ít nhất 4%. Tại khu vực Đông Á, chỉ có hai quốc gia khác là Trung Quốc và Myanmar dự kiến tăng trưởng GDP dương trong năm nay.
Báo cáo cho biết trong năm 2020, nhiều ngành ở Việt Nam ghi nhận tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn so với giai đoạn trước dịch COVID-19. Trong đó, ngành công nghiệp tăng 3,08% trong ba quý đầu năm 2020, tiếp đến là ngành nông nghiệp (1,84%) và ngành dịch vụ (1,37%).
Bên cạnh đó là những biến động lớn trong từng ngành và theo thời gian. Chẳng hạn, doanh số bán lẻ hàng hóa tăng 5,4% ở 10 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước. Lương thực thực phẩm tăng 9,4%; dụng cụ, đồ dùng và thiết bị gia dụng tăng 6,3%.
Ngược lại, vận tải hành khách nội địa và quốc tế giảm lần lượt 30% và 80% trong 10 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm 2019, do những hạn chế đi lại cần thực hiện.
Khu vực kinh tế trong nước phục hồi nhanh chóng, khu vực kinh tế đối ngoại vững vàng
Báo cáo cũng đề cập đến những yếu tố tạo ra khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam.
Một trong số đó là sự phục hồi nhanh chóng của khu vực kinh tế trong nước. Báo cáo chỉ ra khu vực tư nhân trong nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong đợt cách ly gần như toàn quốc vào tháng 4 nhưng đã bật dậy nhanh chóng sau khi các biện pháp hạn chế từng bước được nởi lỏng trong những tháng tiếp theo.
Phản ứng của khu vực kinh tế trong nước chủ yếu nhờ việc kiểm soát dịch bệnh thành công, qua đó tạo điều kiện cho chính quyền từng bước gỡ bỏ những biện pháp hạn chế đi lại.
Các hoạt động chế biến chế tạo giảm 13,4% (so cùng kỳ năm trước) trong giai đoạn cách ly toàn xã hội vào tháng 4. Sau đó, những biện pháp hạn chế dần được nới lỏng khiến cho các hoạt động kinh tế và đi lại tăng dần theo thời gian.
"Nhìn chung, mối quan hệ chặt chẽ, thuận chiều giữa hoạt động kinh tế và đi lại diễn ra ở Việt Nam cũng giống như hầu hết nền kinh tế trên thế giới. Việt Nam là ngoại lệ không phải trong mối quan hệ trên, mà về khả năng gỡ bỏ các biện pháp hạn chế nhanh chóng, kể cả với đợt dịch bùng phát lần hai vào tháng 8. Thành công đó chắc chắn đã nâng cao lòng tin của người tiêu dùng và nhà đầu tư, qua đó dần đẩy mạnh nhu cầu trong nước, dẫn đến sản lượng sản xuất và doanh số bán lẻ tăng lên", báo cáo của WB nêu.
Yếu tố thứ hai tạo ra khả năng chống chịu của nền kinh tế Việt Nam là sự vững vàng của khu vực kinh tế đối ngoại. WB cho rằng sự vững vàng này nằm ngoài kỳ vọng.
Vào đầu giai đoạn khủng hoảng, khu vực kinh tế đối ngoại được dự báo sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi suy thoái toàn cầu, nhưng điều không ngờ là Việt Nam dự kiến đạt thặng dư tài khoản vãng lai trong năm 2020. Việt Nam đang ghi nhận kỷ lục về thặng dư thương mại hàng hóa và tích lũy được gần 100 tỷ USD dự trữ ngoại hối. Tài khoản vãng lai đạt thặng dư ngay cả khi ngành du lịch bị ảnh hưởng nặng nề do hạn chế nhập cảnh với du khách nước ngoài, và kiều hối của người Việt Nam ở nước ngoài dự kiến giảm khoảng 7,8% trong năm 2020 so với năm trước.
WB cho rằng kết quả ấn tượng nhất của Việt Nam là xuất khẩu trong 10 tháng đầu năm 2020 tăng trưởng khoảng 4,8% so với cùng kỳ năm 2019. Mặc dù kết quả trên vẫn thấp hơn so với kết quả mà Việt Nam ghi nhận trong những năm gần đây, nhưng lại đạt được trong bối cảnh dòng lưu chuyển thương mại toàn cầu dự kiến giảm khoảng 10%, theo ước tính mới nhất của Tổ chức Thương mại Thế giới.
Nói cách khác, Việt Nam đã và đang có khả năng tăng thị phần thương mại toàn cầu trong khi các nước khác đang gặp khó khăn. Diễn biến tích cực trên có được một phần nhờ khả năng kiểm soát tốt khủng hoảng y tế. Nhờ mở lại các nhà máy sớm hơn so với các quốc gia khác, Việt Nam khuyến khích các nhà xuất khẩu dịch chuyển một phần hoạt động sản xuất của họ ra khỏi các đối thủ cạnh tranh như Ấn Độ và Pakistan.
Ngoài ra, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục đổ vào mạnh mẽ là dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư vẫn tin tưởng vào triển vọng kinh tế Việt Nam, đồng thời củng cố tài khoản vốn.
"Khủng hoảng hiện nay vẫn là cú sốc lớn với nền kinh tế Việt Nam"
Dù vậy, WB nhận định khủng hoảng hiện nay vẫn là cú sốc lớn đối với nền kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể đối với một nền kinh tế vốn quen với tăng trưởng cao và hầu như đạt toàn dụng lao động trong 25 năm qua.
Cú sốc này ảnh hưởng đến thị trường lao động trong nước, và một bộ phận người lao động, chủ yếu là nữ giới, cũng như các doanh nghiệp và hộ gia đình.
Mặc dù tương đối ít doanh nghiệp phải sa thải lao động, nhưng nhiều doanh nghiệp đã giảm lương và giờ làm. Các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình cũng cắt giảm hoạt động. Những diễn biến đó dẫn đến thất nghiệp tăng lên, khiến một số người lao động phải rời bỏ lực lượng lao động.
Tổng tỷ lệ thất nghiệp nói chung đã quay lại mức gần như trước khủng hoảng sau khi tăng tạm thời trong quý II. Nhưng điều này chủ yếu thể hiện nam giới có cơ hội quay lại làm việc. Ngược lại, tỷ lệ thất nghiệp của nữ giới tiếp tục tăng đến 3,9% vào cuối quý III, dẫn đến chênh lệch ở mức 1,4 điểm phần trăm giữa tỷ lệ thất nghiệp của nam và nữ. Thất nghiệp tăng lên hầu như chỉ là hiện tượng ở đô thị. Ngay cả lúc đỉnh điểm tác động của đại dịch vào quý II/2020, những người muốn làm việc ở nông thôn vẫn có thể tìm được việc làm.
Mức lương thực tế bình quân giảm mạnh do khủng hoảng. Lương thực tế bình quân giảm 10,2% trong giai đoạn từ quý I đến quý II/2020 và vẫn đi ngang trong quý III.
"Mức lương giảm xuống xóa đi hầu hết thành quả tăng lương từ quý IV/2019. Điều này phản ánh sự đình trệ về các hoạt động kinh tế, thể hiện tác động liên tiếp của cú sốc hiện nay đến thị trường lao động", các chuyên gia của WB viết trong báo cáo.
Triển vọng tích cực trong ba năm tới
Theo WB, triển vọng kinh tế Việt Nam ngắn hạn và trung hạn phụ thuộc nhiều vào tốc độ khôi phục của nền kinh tế trong nước, cũng như diễn biến đại dịch trên thế giới. WB cho rằng thời điểm phê duyệt vắc xin lần cuối và vai trò của vắc xin sẽ quyết định tốc độ phục hồi trên toàn cầu.
WB dự báo tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể đạt 6,8% năm 2021, sau đó ổn định xoay quanh mức 6,5% vào năm 2022 với điều kiện tình hình trong nước và quốc tế thuận lợi.
Tuy nhiên, những dự báo trên còn phụ thuộc vào nhiều bất định trong bối cảnh toàn cầu, kết quả quản lý một số rủi ro có thể phát sinh ở các mặt tài khóa, tài chính và xã hội.
Theo dự báo của WB, ngành nông nghiệp dự kiến phục hồi sau tác động của dịch cúm heo gây ảnh hưởng vào quý 1/2020 và những thiệt hại trong mùa bão năm 2020. Ngành dịch vụ tiếp tục khôi phục nhờ gỡ bỏ hầu hết biện pháp giãn cách xã hội và sức cầu tăng lên ở tầng lớp trung lưu trong nước.
Những biện pháp cấm du khách nước ngoài sẽ từng bước được gỡ bỏ và ngành du lịch từng bước phục hồi. Các hoạt động chế tạo và chế biến sẽ khởi sắc hơn nữa khi nền kinh tế Mỹ và châu Âu khôi phục, trở thành động lực gia tăng nhu cầu với những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
"Quá trình hồi phục còn được tăng cường nhờ các hiệp định khu vực mới được thông qua và sự cộng hưởng dự kiến được hình thành giữa công ty đa quốc gia và doanh nghiệp trong nước", báo cáo của WB nêu.