|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Hàng hóa

Giá gạo xuất khẩu tăng nhẹ, giao dịch nội địa trầm lắng

22:00 | 07/12/2025
Chia sẻ
Giá gạo 5% tấm được chào bán ở mức từ 365-370 USD/tấn, tăng so với mức từ 359-363 USD/tấn của một tuần trước đó, đánh dấu mức cao nhất kể từ đầu tháng 11/2025.

Giá gạo Việt Nam xuất khẩu tuần qua có sự tăng nhẹ. Ở thị trường nội địa, giá lúa gạo tại nhiều tỉnh thành Đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung vẫn giao dịch tương đối trầm lắng.

Giá gạo 5% tấm được chào bán ở mức từ 365-370 USD/tấn, tăng so với mức từ 359-363 USD/tấn của một tuần trước đó, đánh dấu mức cao nhất kể từ đầu tháng 11/2025.

Tại thị trường trong nước, theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tại Cần Thơ, lúa Jasmine vẫn có giá là 8.400 đồng/kg, tương đương so với tuần trước; lúa IR 5451 là 6.200 đồng/kg; ST25 là 9.400 đồng/kg; OM 18 là 6.600 đồng/kg.

Tại Đồng Tháp, lúa IR 50404 có giá 6.700 đồng/kg, OM 18 là 6.900 đồng/kg. Tại Vĩnh Long, lúa OM 5451 có giá 6.300 đồng/kg, OM 4900 là 7.000 đồng/kg.

Tại An Giang, giá các loại lúa tươi hầu hết vẫn giữ vững so với tuần trước, IR 50404 được thu mua 5.100-5.300 đồng/kg; OM 18 ở mức 5.600-5.700 đồng/kg; Đài Thơm 8 từ 6.400-6.600 đồng/kg; riêng OM 5451 từ 5.400-5.600 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg.

Tính đến ngày 30/11, theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, vụ Thu Đông 2025, toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã xuống giống 621.000n ha, đạt 97% so với kế hoạch; trong đó 387,000 ha đã được thu hoạch với năng suất bình quân 57,77 tạ/ha, sản lượng ước đạt 2,237 triệu tấn. Đối với vụ Mùa, các địa phương đã gieo sạ 160.000 ha, đạt khoảng 91% kế hoạch và bắt đầu thu hoạch với khoảng 1.000 ha.

Riêng vụ Đông Xuân 2025-2026, toàn vùng đã xuống giống được 167.000 ha, tương đương 13,17% trong tổng kế hoạch 1,266 triệu ha.

Trên thị trường bán lẻ An Giang, giá gạo ổn định: gạo thường 11.000-12.000 đồng/kg; gạo thơm thái 20.000-22.000 đồng/kg; Jasmine 16.000-18.000 đồng/kg; gạo trắng 16.000 đồng/kg, Nàng Hoa 21.000 đồng/kg, Hương Lài 22.000 đồng/kg, thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg, Sóc thường 17.000 đồng/kg, Sóc Thái 20.000 đồng/kg, gạo Nhật 22.000 đồng/kg.

Giá gạo nguyên liệu IR 50404 vẫn ở mức từ 7.550-7.650 đồng/kg, gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500-9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 7.200-7.300 đồng/kg; gạo thành phẩm OM 380 dao động ở mức 8.800-9.000 đồng/kg.

Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm các loại dao động trong khoảng từ 7.400-10.000 đồng/kg; giá cám khô ở mức 9.000-10.000 đồng/kg.

Trong khi đó ở thị trường gạo châu Á, tuần qua, giá gạo Thái Lan đã tăng lên mức cao nhất trong hơn 4 tháng qua do những lo ngại về nguồn cung bắt nguồn từ tình hình lũ lụt ở phía Nam. Trái lại, giá gạo của cả Ấn Độ trượt xuống gần mức thấp nhất trong một tháng.

Theo thông tin từ một thương nhân tại Bangkok, giá gạo 5% tấm của Thái Lan được chào bán ở mức 375 USD/tấn trong tuần này, tăng so với mức 370 USD/tấn của tuần trước do ảnh hưởng của lũ lụt.

Đây là mức giá cao nhất được ghi nhận kể từ ngày 24/7. Thương nhân này giải thích rằng đà tăng giá này chỉ áp dụng đối với gạo Thái Lan ở khu vực phía Nam do tình trạng ngập lụt tại đây.

Tại Ấn Độ, loại gạo đồ 5% tấm đã giảm từ mức từ 348-356 USD/tấn của tuần trước xuống còn từ 347-354 USD/tấn trong tuần này, mức thấp nhất trong gần một tháng.

Gạo trắng 5% tấm có giá dao động từ 340-345 USD/tấn. Nhu cầu đối với gạo Ấn Độ đã ghi nhận sự cải thiện nhẹ trong tuần này khi giá gạo giảm theo đà trượt dốc xuống mức thấp kỷ lục của đồng rupee.

Ông B.V. Krishna Rao, Chủ tịch Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Ấn Đội, nhận định rằng việc đồng rupee suy yếu đang giúp các nhà xuất khẩu có điều kiện hạ giá bán để tăng tính cạnh tranh trong việc thu hút nhu cầu.

Ở một diễn biến khác, giá gạo nội địa tại Bangladesh vẫn neo ở mức cao bất chấp lượng tồn kho dồi dào và mùa màng bội thu. Quốc gia này đã nhập khẩu 1,437 triệu tấn trong niên vụ 2024-2025 và thêm 500.000 tấn trong khoảng thời gian từ tháng 7-11, tuy nhiên giá cả vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.

Diện tích canh tác càphê thông minh tại Gia Lai cho năng suất, chất lượng cao. (Ảnh: Hồng Điệp/TTXVN)

Các loại nông sản khác

Thị trường nông sản Mỹ cho thấy, giá đậu tương kỳ hạn tại Chicago giảm nhẹ trong phiên 5/12 và hướng tới tuần giảm giá đầu tiên trong 8 tuần, trong bối cảnh thị trường đang thận trọng vì chưa rõ Trung Quốc sẽ thực sự mua bao nhiêu đậu tương của Mỹ theo thỏa thuận đình chiến thương mại.

Phiên này, giá đậu tương trong hợp đồng có kỳ hạn giao gần nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) giảm 0,3% xuống mức 11,165 USD/bushel (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) mới đây cho biết doanh số xuất khẩu ròng đậu tương Mỹ đạt 1.248.500 tấn trong tuần kết thúc ngày 30/10, trong đó có 232.000 tấn sang Trung Quốc. Đây là đợt mua hàng đầu tiên của Trung Quốc từ vụ thu hoạch năm 2025 của Mỹ.

Tuy nhiên, tổng lượng mua vẫn thấp hơn nhiều so với mục tiêu 12 triệu tấn mà các quan chức cấp cao Mỹ đề cập trước đó. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Scott Bessent trong tuần này cũng đã lùi thời hạn đạt mục tiêu trên từ cuối tháng 12/2025 sang cuối tháng 2/2026.

Tương tự đậu tương, giá lúa mỳ và ngô cũng hạ nhiệt do nguồn cung toàn cầu dồi dào đã lấn át lực đẩy từ hoạt động xuất khẩu ngô đang rất sôi động của Mỹ.

Giá lúa mỳ trên sàn CBOT giảm 0,5% xuống 5,375 USD/bushel, trong khi giá ngô giảm 0,3% xuống 4,46 USD/bushel.

Cơ quan Thống kê Canada mới đây báo cáo tổng sản lượng lúa mỳ của nước này đạt gần 40 triệu tấn, vượt qua kỳ vọng của thị trường. Số liệu này cho thấy nguồn cung toàn cầu đang rất dồi dào, từ đó gây áp lực lên giá.

Trong khi đó, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) ngày 5/12 cũng đã nâng dự báo sản lượng và tồn kho ngũ cốc thế giới trong niên vụ này lên mức cao kỷ lục.

Mặc dù vậy, giá ngô tại Chicago vẫn neo gần mức đỉnh 6 tháng được thiết lập hồi đầu tuần, nhờ sự hỗ trợ từ hoạt động xuất khẩu sôi động và những lo ngại về thời tiết lạnh giá gây cản trở việc vận chuyển ngũ cốc của Mỹ.

Trên thị trường càphê quốc tế, giá càphê có diễn biến trái chiều nhưng xu hướng chung là tăng nhẹ. Sàn London ghi nhận giá càphê robusta giao tháng 1/2026 tăng 16 USD lên 4.331 USD/tấn, kỳ hạn tháng 3/2026 tăng 32 USD lên 4.244 USD/tấn.

Tại sàn New York, giá càphê arabica giao tháng 12/2025 tăng 5,45 xu Mỹ/lb lên 409,2 xu Mỹ/lb; hợp đồng tháng 3/2026 tăng 3,7 xu Mỹ/lb lên 376,15 xu Mỹ/lb (1 lb = 0,4535 kg).

Dù tăng, giá càphê robusta vẫn xoay quanh vùng thấp nhất 1,5 tuần khi thị trường tiếp tục theo dõi ảnh hưởng của bão và mưa lớn tại Việt Nam. Thời tiết xấu những ngày gần đây khiến hoạt động thu hoạch bị chậm lại và tăng nguy cơ rụng quả, làm dấy lên lo ngại sản lượng giảm trong vụ này.

Giới thương nhân hiện chia thành hai quan điểm: một phía cho rằng sản lượng có thể ổn định nhờ nguồn cung bù đắp cuối vụ, trong khi phía còn lại dự báo sản lượng có thể giảm 5-10% tùy khu vực.

Quan điểm trái chiều khiến diễn biến giá liên tục biến động theo từng thông tin mới từ các vùng nguyên liệu.

Đối với càphê arabica, giá được hỗ trợ bởi đồng real Brazil tăng mạnh lên mức cao nhất hai tuần. Đồng nội tệ tăng khiến nông dân Brazil hạn chế bán ra, góp phần giữ giá arabica ổn định.

Xuất khẩu càphê Brazil sang Mỹ vẫn chậm dù các rào cản thuế quan đã được gỡ bỏ, song được dự báo sẽ cải thiện vào đầu năm 2026 khi nguồn cung trong nước ổn định hơn.

Tại thị trường trong nước, giá càphê ngày 6/12 tăng nhẹ trở lại từ 400-500 đồng/kg, dao động từ 103.300-104.000 đồng/kg tại các vùng trọng điểm khu vực Tây Nguyên.

Cụ thể, giá càphê hôm nay tại tỉnh Đắk Lắk tăng nhẹ 400 đồng/kg so với ngày hôm qua, lên mức 104.000 đồng/kg. Đắk Lắk cũng là địa phương có mức giá càphê cao nhất trên cả nước hôm nay.

Tương tự, giá càphê hôm nay tại tỉnh Gia Lai giao dịch ở mức 103.600 đồng/kg, tăng 400 đồng/kg. Tại tỉnh Lâm Đồng, giá càphê tăng 500 đồng/kg, giao dịch ở mức 103.300 đồng/kg./.

Bích Hồng-Khánh Ly

Bất động sản 2026 có xuất hiện bong bóng?
Giá nhà liên tục tăng và chênh lệch lớn so với khả năng chi trả của người dân khiến giới đầu tư lo ngại về nguy cơ hình thành bong bóng nhà ở, tương tự như tình hình xảy ra ở Trung Quốc. Dù kịch bản tiêu cực này chưa xuất hiện nhưng chuyên gia vẫn lưu ý một số trường hợp tiềm ẩn rủi ro.