Doanh nghiệp gặp vướng mắc khi phân loại hàng hóa tính thuế
Trong bối cảnh cộng đồng doanh nghiệp còn nhiều khó khăn, vượt nghịch cảnh để đứng vững, ổn định và phát triển đang là 1 thách thức lớn đối với họ thì việc tiếp tục duy trì chính sách giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) từ nay tới cuối năm 2024 là hết sức cần thiết. Điều này được các cấp ngành, địa phương và số đông doanh nghiệp ghi nhận, đánh giá cao.
Tuy nhiên, theo ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban pháp chế, Phó Tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, qua tổng hợp ý kiến từ nhiều doanh nghiệp thành viên VCCI cho thấy, họ đang gặp khá nhiều vướng mắc khi áp dụng chính sách này, chủ yếu xuất phát từ việc phân loại hàng hoá nào phải chịu thuế 10%, hàng hoá nào được giảm thuế xuống 8%.
Dù Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2022/NĐ-CP quy định chính sách miễn, giảm thuế và Nghị định 44/2023/NĐ-CP quy định chính sách giảm thuế giá trị gia tăng, nhưng quá trình triển khai vẫn còn nhiều lúng túng.
Hai nghị định này được xây đựng dựa trên mã ngành kinh tế Việt Nam, trong khi văn bản này trước nay chủ yếu được sử dụng với mục đích thống kê, hiếm khi được coi là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Việc cụ thể hoá các nhóm hàng hoá, dịch vụ rất khó khăn, đặc biệt là đối với những trường hợp không có pháp luật chuyên ngành.
Đơn cử, nhóm hàng hoá viễn thông và công nghệ thông tin rất khó xác định do không có định nghĩa rõ ràng trong các văn bản pháp luật khác. Nhiều loại hàng hoá, dịch vụ khác cũng gặp vướng mắc phân loại như sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản xuất hoá chất cũng rất chung chung và khó phân loại.
Nhiều trường hợp doanh nghiệp tra cứu Phụ lục của Nghị định 15 và 44 nhưng không dám khẳng định hàng hoá, dịch vụ của mình thuộc diện thuế suất 10% hay 8%. Một số doanh nghiệp hỏi cơ quan thuế, cơ quan hải quan, Bộ Tài chính nhưng các cơ quan này cũng trả lời rất chung chung, như “Đề nghị công ty căn cứ Quyết định số 43/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đối chiếu mã sản phẩm của hàng hóa, dịch vụ mà công ty cung cấp với mã sản phẩm của hàng hóa, dịch vụ tại Phụ lục I, II, III ban hành kèm theo Nghị định số 44/2023/NĐ-CP để thực hiện đúng theo quy định”.
Đồng tình quan điểm này, ông Trần Công Thành, CEO Công ty cổ phần Công nghệ và Truyền thông Vibest cho hay, việc tuân thủ và minh bạch dữ liệu tài chính kế toán là việc làm cần thiết thể hiện sự chính trực và uy tín của doanh nghiệp, xứng đáng với sự tín nhiệm của khách hàng. Mỗi tháng, Vibest hiện đang đóng thuế hàng tỷ đồng theo quy định của cơ quan thuế. Sau thời gian dịch bệnh COVID-19 và để hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó khăn, đã có thời kỳ Chính phủ và ngành tài chính giảm nộp thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống còn 8% đã phần nào giảm bớt áp lực và nghĩa vụ thuế cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thông báo điều chỉnh sau đó là giữ nguyên mức thuế 8% VAT chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng, lĩnh vực sản xuất và số còn lại thì quay trở về mức thuế 10% đã khiến cho doanh nghiệp phát sinh nhiều bất cập. Công tác phân loại, xuất hóa đơn chứng từ tài chính bỗng chốc trở nên phức tạp và tốn phí nhiều thời gian hơn so với trước kia. Từng có trường hợp, kế toán viên nhầm lẫn, dẫn với việc điều chỉnh khá lằng nhằng, gây tâm lý không thoải mái cho chủ doanh nghiệp.
Ông Trần Công Thành cho rằng, đối với không chỉ Vibest mà chính sách nào gắn với sự phát triển của doanh nghiệp cũng đòi hỏi sự ổn định, thống nhất về chủ trương và dễ dàng thuận lợi trong thực thi là điều hết sức quan trọng. Sự điều chỉnh hay biến động vượt ngoài khả năng kiểm soát có thể khiến doanh nghiệp đối diện với những vướng mắc khó lường và đó là điều nên tránh nên không muốn nhận về nhiều phản hồi tiêu cực từ cộng đồng doanh nghiệp, ông Thành khuyến nghị.
Từ thực tế trên cho thấy, khó khăn trong việc xác định thuế suất 8% hay 10% gây nhiều chi phí xã hội và làm tăng rủi ro của hoạt động sản xuất kinh doanh, ông Đậu Anh Tuấn phân tích. Nhiều doanh nghiệp phản ánh họ phải thuê thêm người làm kế toán để điều chỉnh hoá đơn và sổ sách cho đúng với mức thuế mới. Không ít doanh nghiệp phản ánh tình trạng đàm phán mua bán hàng hóa, thỏa thuận xong hết với khách hàng về số lượng, chất lượng, giá cả nhưng không thống nhất về mức thuế 8% hay 10% nên không ký được hợp đồng. Đã có trường hợp doanh nghiệp thực hiện các gói thầu xây lắp phát sinh tranh chấp với đối tác khi quyết toán chỉ vì hai bên có quan điểm khác nhau về mức thuế suất.
Với những lý do trên, đại diện VCCI, ông Tuấn kiến nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc phương án giảm thuế giá trị gia tăng cho tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ từ mức 10% xuống mức 8%.