|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Doanh nghiệp

Cổ phần hoá đạm Ninh Bình 'nghẽn' vì nhà thầu Trung Quốc

07:40 | 14/02/2017
Chia sẻ
Một trong những vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá Công ty TNHH MTV Đạm Ninh Bình liên quan đến việc quyết toán với nhà thầu EPC – HQC (Trung Quốc).
co phan hoa dam ninh binh nghen vi nha thau trung quoc
Dự án nhà máy đạm Ninh Bình. Ảnh: TL

Tại báo cáo gửi Bộ Công Thương, Bộ Tài chính mới đây của Tập đoàn Hoá chất Việt Nam (Vinachem), tập đoàn này chỉ ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác cổ phần hoá tại Công ty TNHH MTV Đạm Ninh Bình.

Cụ thể, vấn đề thực hiện việc quyết toán với nhà thầu EPC – HQC (Trung Quốc) và quyết toán hoàn thành dự án. Bên cạnh đó, vấn đề xử lý lỗ luỹ kế của Công ty TNHH MTV Đạm Ninh Bình.

Mặt khác, do dự án mới đi vào hoạt động nên lãi vay đầu tư, khấu hao lớn, đồng thời giá bán phân đạm urê trong nước và trên thế giới hiện xuống thấp nên hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty bị lỗ.

Vinachem cho biết, tập đoàn đã có công văn gửi Thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép lùi việc thực hiện cổ phần hoá Công ty TNHH MTV Đạm Ninh Bình vào giai đoạn sau năm 2015 khi những khó khăn của công ty được tháo gỡ và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có lãi, đảm bảo cổ phần hoá có hiệu quả.

Trong một báo cáo trước đó, Vinachem từng cho biết, Dự án nhà máy đạm Ninh Bình dự kiến năm 2016 lỗ khoảng 1.078 tỷ đồng như vậy, tính từ năm 2013 nhà máy với vốn đầu tư 12.000 tỷ đồng đã thua lỗ 3.314 tỷ đồng. Dự kiến năm 2017 tới đây dự án tiếp tục thua lỗ nếu tiếp tục hoạt động hay dừng lại với số lỗ cũng lên đến hơn 1.000 tỷ đồng.

Báo cáo cũng cho biết nhiều nội dung liên quan đến hợp đồng EPC với nhà thầu HQC của Trung Quốc có hiệu lực từ ngày 30/4/2008.

Theo báo cáo, sau khi hoàn thành xây dựng, lắp đặt, chạy thử đơn động từ hạng mục trong nhà máy, nhà thầu HQC đã đề nghị chủ đầu tư được chạy nghiệm thu lần 1 từ ngày 19/9/2012-22/9/2012. Kết quả chưa hoàn toàn đạt yêu cầu về thông số đảm bảo theo Hợp đồng EPC. Tuy nhiên, ngày 24/9/2012, nhà thầu đã bàn giao quyền điều hành cho chủ đầu tư.

Tháng 11/2013, khi công suất từng công đoạn đã được nâng lên trên 90% thiết kế và vận hành chạy máy dài ngày, nhà thầu HQC đã đề nghị chủ đầu tư cho phép tiến hành khảo nghiệm lần 2 từ ngày 9/22-12/11/2013.

Kết quả vận hành khảo nghiệm lần 2 cơ bản đạt quy định trong hợp đồng về công suất, về chất lượng sản phẩm, về định mức tiêu hao nguyên nhiên vật liệu và thông số về môi trường. Tuy nhiên, còn 5/46 thông số chưa đạt giá trị nhưng vẫn nằm trong dải thông số được nghiệm thu và chịu bồi thường theo hợp đồng.

Để có cơ sở quyết toán gói thầu EPC, từ đầu năm 2013 đến nay, Tập đoàn đã tiến hành họp đàm phán chính thức với nhà thầu 16 cuộc. Cuộc đàm phán cấp cao cuối cùng họp từ ngày 22-24/10/2016.

Tại cuộc đàm phán cuối cùng 2 bên đã thống nhất được 6 vấn đề, trong đó có các nội dung quan trọng như thời điểm để tính mốc hoàn thành công trình là 23/12/2012; các thông số đảm bảo không đạt và nhà thầu phải bồi thường cho chủ đầu tư với giá trị bồi thường cho 5 hạng mục không đạt là hơn 1,6 triệu USD.

Hai bên cũng thống nhất 41 hạng mục tồn tại xây dựng dự toán lập là hơn 20 triệu USD, chi phí khắc phục tồn tại hơn 21,3 triệu USD được trừ vào giá trị thanh quyết toán hợp đồng. Đồng thời, thống nhất chi phí xử lý khắc phục tồn tại trong xây lắp 1,3 triệu USD và hơn 41 tỷ đồng sẽ được trừ vào giá trị hợp đồng khi quyết toán. Thời gian chậm tiến độ do các nguyên nhân khách quan đã được 2 bên thống nhất kéo dài là 47 ngày.

Dù vậy, vẫn có tới 10 vấn đề chưa được 2 bên thống nhất. Trong đó, về chi phí chạy thử lần 2, chủ đầu tư yêu cầu nhà thầu chịu toàn bộ chi phí chạy thử nhưng nhà thầu không chấp nhận. Cuối cùng, nhà thầu đề xuất chịu 190 tỷ đồng tiền than vượt và không yêu cầu thanh toán cho 1 hạng mục 14 tuyến đường nội bộ không nghiệm thu.

Kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực tới ngày bàn giao, chậm 60 tuần so với tiến độ nhưng nhà thầu vẫn giữ quan điểm cho rằng việc chậm tiến độ là do các nguyên nhân khách quan khác nữa. Các nguyên nhân này không được phía chủ đầu tư chấp nhận.

Về vấn đề thanh toán, phạt chậm thanh toán, đến thời điểm ngày 20/12/2016, chủ đầu tư đã thanh toán hơn 463,9 triệu USD, còn lại 48,8 triệu USD. Trong quá trình thực hiện dự án, do vấn đề nguồn vốn nên có việc chậm thanh toán cho nhà thầu. Chủ đầu tư chấp nhận chịu phạt chậm thanh toán với số tiền đã được thống nhất tuy nhiên nhà thầu yêu cầu phải tính phạt thêm cả các mã hoá đơn hai bên đã kiểm tra xác nhận không đủ điều kiện thanh toán, cần bổ sung hoàn thiện.

Ngày 16/12/2016 vừa qua, chủ đầu tư đã có văn bản đề nghị nhà thầu thông báo ý kiến cuối cùng về các tồn tại của Hợp đồng EPC hiện chưa được hai bên thống nhất để chủ đầu tư xem xét, báo cáo cấp có thẩm quyền, kết thúc đàm phán. Tời thời điểm lập báo cáo là cuối tháng 12, Ban Quản lý dự án vẫn chưa nhận được báo cáo này.

Trên cơ sở 16 phiên đàm phán, Ban Quản lý dự án đã xin ý kiến chỉ đạo của Vinachem về những tồn tại của hợp đồng EPC. Kiến nghị cho phép thực hiện quyết toán dự án trong trường hợp nhà thầu chậm hoặc không bàn giao hồ sơ hoàn công và báo cáo quyết toán trong quý I/2017.

Nguyễn Thảo