|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

Thị trường lao động châu Á đối mặt nguy cơ biến động mạnh

07:45 | 07/07/2020
Chia sẻ
Giới chuyên gia cảnh báo nếu xảy ra làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ hai trong khu vực hoặc nếu xuất khẩu giảm mạnh hơn nữa, số lượng lớn người lao động tại châu Á sẽ có nguy cơ mất việc.
Thị trường lao động châu Á đối mặt nguy cơ biến động mạnh - Ảnh 1.

Người dân xếp hàng bên ngoài một cửa hàng ở Manila, Philippines, ngày 4/6/2020. (Nguồn: THX/TTXVN)

Giữa lúc đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, tỷ lệ thất nghiệp được ghi nhận tại các quốc gia châu Á nhìn chung không phải là vấn đề đáng báo động.

Tuy nhiên, giới chuyên gia cảnh báo nếu xảy ra làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ hai trong khu vực hoặc nếu xuất khẩu giảm mạnh hơn nữa do khó khăn tại các nền kinh tế phương Tây, số lượng lớn người lao động tại châu Á sẽ có nguy cơ mất việc.

Trong tháng 5/2020, tỷ lệ thất nghiệp của Khu hành chính đặc biệt Hong Kong (Trung Quốc) ở mức 5,9%, tăng so với mức 2,8% của cùng kỳ năm ngoái, dù kinh tế của đặc khu này rơi vào suy thoái thậm chí trước cả khi xảy ra đại dịch COVID-19.

Tỷ lệ thất nghiệp tại Philippines tăng hơn 3 lần lên 17,7% trong giai đoạn từ tháng 1-4/2020, trong khi số liệu chính thức của hầu hết các nền kinh tế châu Á khác là tương đối ổn định.

Tuy nhiên, đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Thực tế, thị trường lao động châu Á đang đối mặt với nhiều thách thức.

Theo đánh giá của các chuyên gia, một số lượng lớn người lao động đang đứng trước nguy cơ mất việc làm nếu xảy ra làn sóng lây nhiễm COVID-19 thứ hai tại châu lục này, hoặc nếu xuất khẩu sụt giảm mạnh hơn nữa do khó khăn tại các nền kinh tế phương Tây.

Số liệu thất nghiệp hiện tại của châu Á cũng đang cho thấy một bức tranh không hoàn chỉnh.

Tại Nhật Bản, số lao động không có việc làm đã tăng trong tháng Tư lên mức kỷ lục 6 triệu người, tương đương 8,8% lực lượng lao động, từ con số chỉ 2,5 triệu người của tháng Ba.

Ở các nước có thu nhập thấp tại châu Á, nơi hầu hết người lao động làm việc trong các khu vực kinh tế phi chính thức, số lao động thất nghiệp không được tính đến đang gia tăng và các số liệu chính thức không thể phản ánh chính xác thực trạng này.

Chẳng hạn, những người lao động tự do trở về làng quê vì mất cơ hội việc làm ở thành thị khi các nhà máy và cửa hàng đóng cửa vẫn được coi là có việc làm dù họ có thể không tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Tại Trung Quốc, tỷ lệ thất nghiệp chính thức ở thành thị là 5,9% trong tháng 5/2020, song con số này được cho là chưa tính đến số người di cư.

Mặc dù ước tính 90% lao động nhập cư đã trở lại làm việc trước ngày 30/4, nhưng các chuyên gia cho rằng kinh tế Trung Quốc mất đến 30 triệu việc làm.

Trên thực tế, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới hiện có gần 48 triệu công nhân đứng trước nguy cơ mất việc làm trong các ngành dịch vụ và xuất khẩu.

Bức tranh tương tự cũng xuất hiện ở Ấn Độ. Các cuộc điều tra cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của nước này đã ở mức 8,5% trong tuần thứ ba của tháng 6/2020. Tuy nhiên, con số này chưa bao gồm hàng triệu lao động nhập cư đã trở về nhà.

Cú sốc mang tên COVID-19 đã để lại hậu quả nặng nề nhất đối với lĩnh vực dịch vụ, từ nhà hàng và khách sạn đến du lịch và giải trí. Đây là những ngành kinh tế đang phải đối mặt với sự phục hồi chậm trong khi nắm giữ tỷ lệ việc làm cao.

Vì vậy, các chuyên gia cho rằng việc những doanh nghiệp này buộc phải lựa chọn giữa cắt giảm nhân công hoặc đối mặt với phá sản chỉ là vấn đề thời gian.

Nhìn từ góc độ quản lý rủi ro, các nhà hoạch định chính sách châu Á nên hỗ trợ trực tiếp cho các công ty dưới hình thức giảm thuế, trợ cấp hoặc trợ cấp có điều kiện, để họ bảo toàn việc làm cho người lao động.

Điều tương tự đã được thực hiện tại một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực như Singapore và Hong Kong (Trung Quốc).

Đối với các quốc gia có khu vực kinh tế phi chính thức lớn và rủi ro thất nghiệp tiềm ẩn, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Philippines, chính phủ nên hỗ trợ trực tiếp cho các hộ gia đình.

Các ngân hàng trung ương ở châu Á cũng có thể đóng một vai trò lớn hơn bằng cách mua trái phiếu doanh nghiệp và khuyến khích các ngân hàng thương mại duy trì cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ bằng cách cung cấp cho họ nguồn vốn với lãi suất thấp, thậm chí là bằng 0%. 

PV