Thập niên 2020: Thời đại mới của công nghiệp hóa Việt Nam

Công nhân trong dây chuyền sản xuất của Samsung. Ảnh: T.L
Bốn vấn đề của công nghiệp Việt Nam
Từ giữa thập niên 1990, trong quá trình đổi mới, công nghiệp Việt Nam cũng phát triển một bước lớn. Nhưng hiện nay có bốn vấn đề cần khắc phục:
Thứ nhất, nói về lượng, công nghiệp hóa Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn thấp. Giá trị gia tăng của hàng công nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) chỉ mới khoảng 20% trong khi giai đoạn dân số vàng chỉ còn độ 5-7 năm nữa.
Theo kinh nghiệm các nước đã phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, ở giai đoạn cuối của thời kỳ dân số vàng, tỷ lệ công nghiệp trên GDP phải tăng lên trên 30%. Nghĩa là công nghiệp hóa phải là đầu tàu phát triển trong thời đại dân số vàng.
So với nông nghiệp và dịch vụ, công nghiệp là khu vực năng động, dễ áp dụng công nghệ tiên tiến và dễ tăng tính quy mô kinh tế (economies of scale, quy mô sản xuất càng lớn, giá thành càng nhỏ) nên năng suất cao.
Do đó, đẩy mạnh phát triển công nghiệp là điều kiện để kinh tế phát triển nhanh.
Hiện nay trên bình diện toàn thế giới, sản xuất công nghiệp có khuynh hướng tăng chậm (vì nhu cầu bão hòa) và ngày càng ít dùng lao động (vì sản xuất ngày càng tự động hóa).
Trong lúc đó Việt Nam đang có nhu cầu phải đẩy mạnh công nghiệp hóa hơn nữa để kinh tế tăng trưởng cao trong thập niên 2020, mới bảo đảm công ăn việc làm cho một nước có số dân sắp đạt 100 triệu.
Như vậy Việt Nam phải trực diện với cạnh tranh gay gắt trong quá trình công nghiệp hóa sắp tới.
Một tác động của cuộc cách mạng kỹ thuật số, cách mạng công nghệ 4.0 là tự động hóa trong sản xuất ngày càng mạnh, phát triển công nghiệp không thu hút nhiều lao động như trước, kể cả trong các lĩnh vực vốn có hàm lượng lao động cao.
Thống kê mới nhất cho thấy giá trị gia tăng ở nước ngoài chiếm tới gần một nửa (48%) trong kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp của Việt Nam vào năm 2015.
Mười năm trước đó (năm 2005), mức độ tùy thuộc giá trị gia tăng ở nước ngoài là 42%, cho thấy trong thời gian qua, Việt Nam càng tiến hành công nghiệp hóa càng tùy thuộc vào giá trị phát sinh từ nước ngoài.
Thứ hai, công nghiệp Việt Nam vẫn còn tập trung ở hạ nguồn, còn mang tính gia công, lắp ráp, còn ở giai đoạn thấp trong chuỗi giá trị sản phẩm.
Trong thời gian qua, xuất khẩu hàng công nghiệp của Việt Nam tăng rất nhanh (tăng hơn 5 lần trong 10 năm), trở thành nước xuất khẩu lớn thứ hai trong khối ASEAN.
Nhưng Việt Nam càng xuất khẩu càng phụ thuộc vào sản phẩm trung gian nhập từ nước ngoài, trong đó Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn.
Gần đây Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) công bố một loại thống kê mới về ngoại thương gọi là Mậu dịch trong giá trị gia tăng, cho thấy xuất khẩu của một nước tùy thuộc bao nhiêu phần trăm vào giá trị gia tăng phát sinh từ nước ngoài.
Thống kê mới nhất cho thấy giá trị gia tăng ở nước ngoài chiếm tới gần một nửa (48%) trong kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp của Việt Nam vào năm 2015.
Mười năm trước đó (năm 2005), mức độ tùy thuộc giá trị gia tăng ở nước ngoài là 42%, cho thấy trong thời gian qua, Việt Nam càng tiến hành công nghiệp hóa càng tùy thuộc vào giá trị phát sinh từ nước ngoài.
Tính chất gia công, lắp ráp của công nghiệp Việt Nam phản ảnh rõ trên cán cân mậu dịch của hai mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu.
Thứ ba, trong tổng giá trị gia tăng phát sinh ở nước ngoài mà hàng xuất khẩu công nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu, riêng Trung Quốc chiếm tới 35%.
Mười năm trước đó nước này chỉ chiếm 14%, cho thấy Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào doanh nghiệp Trung Quốc trong quá trình công nghiệp hóa.
Thứ tư, công nghiệp hóa Việt Nam cho đến nay phần lớn dựa vào vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Doanh nghiệp FDI chiếm tới khoảng 50% sản lượng công nghiệp và khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu.
Tỷ lệ tùy thuộc vào doanh nghiệp FDI như vậy là rất lớn. Tình hình gần đây có cải thiện nhưng không đáng kể. Thêm vào đó, do yếu tố thứ hai kể trên, sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước rất yếu.
Chiến lược, chính sách cần thiết hiện nay là giải quyết bốn vấn đề này.
Thời cơ từ dòng thác FDI mới
Hiện nay ngoài Trung Quốc, Việt Nam cũng nhập khẩu nhiều linh phụ kiện, các loại máy móc, các sản phẩm công nghiệp cơ bản (nói chung là các sản phẩm trung nguồn và thượng nguồn) từ Hàn Quốc và một số nước ASEAN.
Trước mắt, chiến lược công nghiệp hóa là đẩy mạnh sản xuất trong nước để thay thế nhập khẩu những sản phẩm ấy.
Ý tưởng khởi đầu là thay thế nhập khẩu nhưng mỗi sản phẩm là một bộ phận trong chuỗi cung ứng toàn cầu nên có thể vừa thay thế nhập khẩu vừa đẩy mạnh xuất khẩu.
Trong thời đại tự do mậu dịch, phải có năng lực cạnh tranh mới thay thế được nhập khẩu và năng lực cạnh tranh cũng là điều kiện để xuất khẩu.
Chẳng hạn về chiến lược phát triển ngành ô tô. Sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô không phải chỉ thay thế nhập khẩu để cung cấp cho thị trường trong nước mà nên xây dựng thành các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, lấy thị trường thế giới làm đối tượng sản xuất để có quy mô kinh tế ngay từ đầu, từ đó đưa Việt Nam trở thành nơi sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô mang tính toàn cầu. Đây cũng là chiến lược yểm trợ cho các công ty lắp ráp ô tô.
Cũng theo chiến lược tương tự, cần thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu linh kiện điện tử và các sản phẩm trung nguồn, thượng nguồn khác như các linh phụ kiện cao cấp dùng cho máy in, máy tính và các loại đồ điện gia dụng.
Chúng ta đẩy mạnh thay thế nhập khẩu các mặt hàng này vừa làm cho cơ cấu công nghiệp tiến sâu trên chuỗi giá trị vừa tránh bớt phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc. Dĩ nhiên việc xác lập sức cạnh tranh đồng loạt cho nhiều ngành công nghiệp là rất khó.
Rất may là hiện nay Việt Nam đang đứng trước một thời cơ hiếm có: Do chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, dòng thác mới FDI đang hướng vào Việt Nam.
Nếu ta đón dòng thác này theo hướng đẩy mạnh thay thế nhập khẩu và nỗ lực xuất khẩu các sản phẩm trung và thượng nguồn qua đó sẽ giải quyết cùng một lúc nhiều vấn đề như tăng tỷ lệ công nghiệp trong GDP, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao trong chuỗi giá trị sản phẩm, tham gia sâu cơ cấu công nghiệp và giảm độ tùy thuộc vào giá trị gia tăng ở nước ngoài, nhất là Trung Quốc.
Nhưng đón nhận làn sóng FDI mới như thế nào?
Trước hết là không nên để cho dòng chảy FDI tự phát đến mà phải tích cực chuẩn bị và định hướng theo hướng giải quyết bốn vấn đề đã nói.
Việt Nam cần có chính sách tích cực, chủ động chọn lựa những ngành công nghiệp có công nghệ cao, thuộc những lĩnh vực cần thay thế nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu.
Ngoài ra, cần nỗ lực chọn lựa những nhà đầu tư đã xác lập được tên tuổi trên thế giới, là những doanh nghiệp không những có công nghệ cao mà còn có văn hóa kinh doanh, có trách nhiệm xã hội, để ngay từ đầu tránh những tiêu cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ, và để chuyển giao công nghệ và năng lực kinh doanh đến các công ty trong nước.
Nếu để làn sóng FDI vào Việt Nam một cách tự phát thì có thể gây ra một số bất lợi cho công nghiệp Việt Nam. Chẳng hạn các vấn đề sau:
Đầu tiên, FDI từ ngành nào cũng cho phép vào thì sẽ gây ra sự cạnh tranh không cần thiết đối với doanh nghiệp trong nước.
Hiện nay độ phụ thuộc vào FDI của nền kinh tế đã quá cao rồi. Cần hạn chế FDI (hoặc chỉ cho phép liên doanh với doanh nghiệp trong nước) trong những lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước có thể đầu tư.
Tiếp đến, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và các nguồn cung cấp khác như điện lực, nước... có giới hạn, không thể tăng nhiều trong thời gian ngắn, do đó nếu để các dự án FDI kém chất lượng vào nhiều sẽ làm hạn chế FDI ở những lĩnh vực mà Việt Nam cần ưu tiên.
Và khuynh hướng FDI vào Việt Nam gần đây cho thấy các doanh nghiệp Trung Quốc rất tích cực.
Dù sao thì Trung Quốc cũng là nước mới nổi, mới phát triển, nhiều doanh nghiệp chưa xác lập văn hóa kinh doanh, trình độ công nghệ và quản lý chưa cao. Nếu FDI từ Trung Quốc ồ ạt vào sẽ gây ra nhiều hệ quả bất lợi.
Để giảm độ tùy thuộc vào FDI, doanh nghiệp trong nước phải mạnh. Doanh nghiệp trong nước phải tham gia sâu và rộng vào chiến lược công nghiệp hóa vừa đề cập.
Nhưng trước hết phải cải thiện “thể chất” doanh nghiệp, giảm đáng kể chi phí hành chính liên quan hoạt động sản xuất kinh doanh của họ, và tạo điều kiện dễ dàng để họ tiếp cận được vốn và đất đai để đầu tư.
Theo điều tra của Tổng cục Thống kê Việt Nam có tới 98% doanh nghiệp là nhỏ và siêu nhỏ.
Đây là khu vực năng suất lao động rất thấp vì không đủ quy mô để có thể mua sắm thiết bị và các phương tiện sản xuất hiện đại. Họ cũng không có năng lực tiếp cận vốn để đầu tư lớn.
Từ phân tích ở trên ta thấy Chính phủ cần có chính sách thích hợp và phải hành động ngay để đón làn sóng FDI nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng sâu rộng, tăng giá trị gia tăng trong nước đối với hàng xuất khẩu, và giữ sự hài hòa giữa thu hút FDI với phát triển doanh nghiệp trong nước.
Trong các chính sách này, cần tập trung chỉ đạo cải thiện cơ sở hạ tầng và bộ máy quản lý tại một số khu công nghiệp sẵn sàng tiếp nhận FDI trong các lĩnh vực nói trên. Ngoài ra cần đưa ra một số chính sách ưu đãi đối với FDI trong các lĩnh vực ưu tiên.
Công nghệ tự động lấn át dần lao động giá rẻ
Khi bàn về chiến lược công nghiệp hóa cho thập niên 2020, cần lưu ý một điểm nữa: Cuộc cách mạng kỹ thuật số, cách mạng công nghệ 4.0 trước mắt có hai tác động ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam.
Một là khuynh hướng tự động hóa trong sản xuất ngày càng mạnh, phát triển công nghiệp không thu hút nhiều lao động như trước, kể cả trong các lĩnh vực vốn có hàm lượng lao động cao.
Nhiều công ty đã nghĩ đến việc xây dựng những nhà máy gần như hoàn toàn tự động (họ gọi là công xưởng thông minh - smart factory).
Cũng do yếu tố vừa nói, phí tổn sản xuất các sản phẩm vốn dùng nhiều lao động như may mặc tại các nước tiên tiến giảm mạnh, không còn chênh lệch nhiều so với các nước lao động rẻ.
Chẳng hạn, một chiếc áo sơ mi sản xuất ở Mỹ giờ chỉ có 0,4 đô la, trong khi ở Campuchia là 0,33 đô la, Bangladesh là 0,22 đô la. Phí tổn ở Việt Nam cao hơn Campuchia và có lẽ ngang bằng với Mỹ.
Một quy kết của hiện tượng này là sẽ có nhiều cơ sở sản xuất do công ty đa quốc gia lập tại các nước lao động rẻ chuyển về các nước tiên tiến để hàng sản xuất có thể cung cấp ngay cho thị trường.
Do đó, công nghiệp hóa của những nước đi sau như Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn. Điều này càng thúc giục Việt Nam vừa phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa vừa sâu vừa rộng mới thu hút lực lượng lao động dư thừa còn rất lớn trong khu vực nông nghiệp, vừa phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao, thoát dần khỏi các ngành dựa vào lao động giản đơn.
Nhưng vấn đề còn lại là nguồn nhân lực phải được đào tạo như thế nào để đáp ứng nhu cầu mới của công nghiệp hóa?
Đào tạo nguồn nhân lực với cách tiếp cận mới
Một trong những điểm nghẽn làm cho kinh tế Việt Nam khó phát triển nhanh là hạn chế về mặt cung trong thị trường lao động. Tuy dân số đông và lực lượng lao động dồi dào về số lượng, nhưng lại không đáp ứng nhu cầu lao động từ doanh nghiệp.
Gần đây với dòng chảy FDI mới đổ vào Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nước ngoài than phiền là khó tuyển đủ lao động phù hợp với nhu cầu.
Mặt khác, hiện nay có tới trên 40% lực lượng lao động còn ở trong khu vực nông nghiệp. Muốn chuyển sang công nghiệp (và dịch vụ), số lao động này cần phải được đào tạo như thế nào?
Theo tôi, tình trạng ở Việt Nam hiện nay có thể tóm tắt như sau: Đại học tư mở tràn lan, giới trẻ lại có khuynh hướng muốn vào đại học nên các đại học tư kém chất lượng vẫn thu hút được sinh viên.
Nhưng sinh viên loại này ra trường sẽ thất nghiệp hoặc làm những việc không cần có bằng đại học; Hệ trung cấp và cao đẳng thật ra rất quan trọng đối với trình độ phát triển và nhu cầu của Việt Nam hiện nay (và cả trong khoảng 10 năm tới) nhưng lại không hấp dẫn giới trẻ vì họ có ấn tượng vào các trường đó là đi học nghề, và không thể có địa vị cao trong xã hội.
Hơn nữa, hệ cao đẳng học tới ba năm, chỉ kém đại học thông thường có một năm, nên họ muốn thêm một năm nữa để vào hệ đại học.
Theo tôi, cần cải tổ toàn diện hệ giáo dục trung cấp, cao đẳng, và thêm một hệ đào tạo đặc biệt cấp 3. Cụ thể có thể tóm tắt như sau:
Thứ nhất, trung cấp và cao đẳng hợp nhất thành hệ đại học đoản kỳ hai năm. Không gọi trung cấp, cũng không gọi là cao đẳng mà là đại học đoản kỳ để cải thiện hình ảnh đối với người học.
Thứ hai, cải tổ chương trình học theo hướng hiện đại, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong thời đại công nghiệp 4.0 (chú trọng dạy công nghệ thông tin và tiếng Anh). Trong hai năm, gần một năm học văn hóa và hơn một năm học chuyên môn.
Thứ ba, lập một số trường cấp 3 chuyên nghiệp trong đó học sinh vừa học các môn thông thường như trung học phổ thông (nhưng ít hơn) và dành thời gian học ngay vào chuyên môn.
Hệ cấp 3 chuyên nghiệp này có thể kéo dài thành bốn năm, thay vì ba năm như trung học phổ thông.
Thứ tư, trong chương trình học ở đại học đoản kỳ hay cấp 3 chuyên nghiệp, nên có mục thực tập ngắn hạn ở các doanh nghiệp.
Thứ năm, đẩy mạnh tuyên truyền vai trò của đại học đoản kỳ và cấp 3 chuyên nghiệp, cho giới trẻ thấy là tốt nghiệp ở các trường nói trên sẽ “nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, và có nhiều cơ hội tiến thân trong xã hội (có năng lực sẽ giữ các chức vụ cao trong công ty...).
Với chiến lược công nghiệp hóa theo hướng như trình bày trong bài này, tôi tin là vào cuối thập niên 2020, Việt Nam sẽ có một nền công nghiệp hiện đại làm đầu tàu cho một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao.