|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Tài chính

Phó Vụ trưởng NHNN: Tính đến 25/11, tín dụng toàn hệ thống đã tăng 10,1%, nhiều áp lực lạm phát trong năm 2022

14:42 | 30/11/2021
Chia sẻ
Tính đến 25/11/2021, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã đạt 10,1% so với cuối năm 2020. Mặt bằng lãi suất cho vay giảm thêm 0,7%/năm trong 9 tháng đầu năm.

Tại toạ đàm "Dẫn mạch phục hồi tăng trưởng kinh tế" do báo Đầu tư tổ chức, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), bà Bùi Thúy Hằng cho biết  tính đến 9/11, tín dụng toàn hệ thống tăng 8,76% so với cuối năm 2020. 

Cập nhật đến 25/11, chỉ tiêu này đã đạt 10,1%, như vậy trong nửa tháng tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã tăng hơn 1,34 điểm %.

Trong thời gian qua, NHNN đã chấp thuận tăng hạn mức tăng trưởng tín dụng trong năm 2021 cho một số ngân hàng, với việc nới thêm từ 1 - 6% tùy vào chất lượng tín dụng cũng như các chỉ số an toàn vốn của từng ngân hàng.

Về tình hình lãi suất, Phó Vụ trưởng cho biết sau khi giảm 3 lần lãi suất điều hành với mức giảm 1,5 - 2%/năm trong năm 2020 và là một trong những ngân hàng trung ương giảm lãi suất mạnh nhất khu vực trong năm 2021, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp.

Đồng thời, NHNN cũng chỉ đạo TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý; triệt để tiết giảm chi phí hoạt động, tập trung mọi nguồn lực để giảm lãi suất cho vay.

Mặt bằng lãi suất cho vay sau khi giảm 1%/năm trong năm 2020, đã giảm thêm 0,7%/năm trong 9 tháng đầu năm 2021.

Phó Vụ trưởng NHNN: Tín dụng toàn hệ thống tăng 8,76% tính đến 9/11 - Ảnh 1.

Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN. (Ảnh chụp màn hình).

Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VND đối với một số ngành, lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,4%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4,5%/năm); lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng thương mại trong nước đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 7,6 - 9,5%/năm.

Lạm phát năm 2022 đối mặt với nhiều áp lực

Đánh giá về rủi ro lạm phát, bà Hằng cho biết thời gian qua lạm phát thế giới có xu hướng tăng nhanh khi nhiều quốc gia áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng, nên áp lực điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới nhìn từ tác động bên ngoài vào là có. 

Việt Nam là nước có độ mở kinh tế lớn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/tổng sản phẩm nội địa là 200% nên chịu áp lực rủi ro của "lạm phát nhập khẩu".

Đối với năm 2021, với dư địa chính sách tiền tệ, việc đảm bảo chỉ tiêu lạm phát năm 2021 dưới 4% có thể đạt được, nhưng năm 2022, nguy cơ rủi ro lạm phát thời gian tới là không thể chủ quan. 

Lạm phát năm 2022 đối mặt với nhiều áp lực kết hợp từ cả yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Cụ thể, xu hướng tăng của giá nguyên, nhiên, vật liệu thế giới, khả năng phục hồi của giá thực phẩm, đặc biệt là thịt gia súc và gia cầm tươi sống trong bối cảnh giá thức ăn chăn nuôi tiếp tục ở mức cao.

Chuỗi cung ứng trong nước và thế giới phục hồi chậm so với tốc độ tăng của tổng cầu khiến giá cả hàng hóa tăng nhanh. Đồng thời, kinh tế nếu phục hồi trong năm 2022 dưới tác động của các gói hỗ trợ khiến nhu cầu tiêu dùng, đầu tư gia tăng, gây sức ép lên giá cả.

Tuy nhiên, theo bà vẫn có một số yếu tố có thể làm giảm áp lực lạm phát như sức cầu của nền kinh tế vẫn còn yếu, kinh tế phục hồi chậm và dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp tác động tiêu cực lên sản xuất, tiêu dùng.

Về định hướng điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành các công cụ CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

NHNN đã xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng cả năm 2021 khoảng 12%, trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2021 khoảng 6,5% và lạm phát khoảng 4% đề ra cho năm 2021.

Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.

Cùng với đó, kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Phương Nga