Phan Văn Anh Vũ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm
Bị cáo Phan Văn Anh Vũ nói lời sau cùng trước khi tòa nghị án sáng 301/. (Ảnh: Văn Điệp/TTXVN)
Ngày 26/2, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho biết, Tòa án đã nhận được đơn kháng cáo của bị cáo Phan Văn Anh Vũ (sinh năm 1975, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Xây dựng Bắc Nam 79, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Nova Bắc Nam 79; cựu Thượng tá, Phó Trưởng phòng Tổng cục V, Bộ Công an) và hai bị cáo: Nguyễn Hữu Bách (sinh năm 1963, cựu Đại tá, Phó Cục trưởng Cục B61, Tổng cục V, Bộ Công an), Phan Hữu Tuấn (sinh năm 1955, cựu Trung tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục V, Bộ Công an).
Như vậy, đến nay, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã nhận được đơn kháng cáo của cả 5 bị cáo trong vụ án này.
Trong đơn kháng cáo viết ngày 11/2/2019, bị cáo Phan Văn Anh Vũ cho rằng mình hoàn toàn không phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ,”bị cáo không đồng ý với nội dung bản án sơ thẩm đã tuyên của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Vì vậy, bị cáo Phan Văn Anh Vũ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đưa ra xét xử vụ án này theo trình tự phúc thẩm. Cũng trong đơn kháng cáo viết cùng ngày 11/2/2019, hai bị cáo Nguyễn Hữu Bách và Phan Hữu Tuấn đã kháng cáo đề nghị Tòa cấp phúc thẩm xem xét, cân nhắc các tình tiết, tính chất, mức độ của hành vi… để giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo.
Trước đó, bị cáo Bùi Văn Thành (sinh năm 1959, cựu Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an) kháng cáo, đề nghị được xem xét các tình tiết giảm nhẹ và xin được hưởng án treo.
Bị cáo Trần Việt Tân (sinh năm 1955, cựu Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Công an) không chấp nhận những phán quyết của Tòa cấp sơ thẩm về nội dung cũng như hình phạt đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Tòa cấp phúc thẩm xem xét giải quyết, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Liên quan đến vụ án này, ngày 14/2/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định kháng nghị một phần bản án sơ thẩm vì cho rằng bản án xác định thiệt hại và quyết định áp dụng biện pháp tư pháp trong vụ án là không đúng bản chất và trái quy định của pháp luật.
Trong các ngày từ 28-30/1/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt các bị cáo Phan Văn Anh Vũ 15 năm tù; Nguyễn Hữu Bách và Phan Hữu Tuấn cùng bị phạt 5 năm tù về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo quy định tại Điều 356, khoản 3 - Bộ luật Hình sự năm 2015. Tổng hợp với bản án trước đó về tội “Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước,” hình phạt chung áp dụng với bị cáo Nguyễn Hữu Bách là 11 năm tù, bị cáo Phan Hữu Tuấn là 12 năm tù.
Riêng đối với bị cáo Phan Văn Anh Vũ, bản án hình sự phúc thẩm ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xử phạt 8 năm tù về tội “Cố ý làm lộ bí mật nhà nước” đã có hiệu lực pháp luật, hình phạt đã được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tổng hợp trong Bản án hình sự sơ thẩm số 498/2018/HS-ST ngày 20/12/2018, nhưng bản án này chưa có hiệu lực pháp luật do có kháng cáo của bị cáo nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để tổng hợp hình phạt, đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân có thẩm quyền tổng hợp hình phạt khi ra quyết định thi hành án.
Bị cáo Bùi Văn Thành bị Tòa tuyên phạt 30 tháng tù, bị cáo Trần Việt Tân bị phạt 36 tháng tù về cùng tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” theo quy định tại Điều 285, khoản 2 - Bộ luật Hình sự năm 1999.
Bản án sơ thẩm xác định, Phan Văn Anh Vũ đã lợi dụng danh nghĩa tổ chức bình phong của Tổng cục V, Bộ Công an để đề nghị Bộ Công an, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng cho thuê đất, chuyển quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của 7 nhà, đất công sản, dự án bất động sản ở các vị trí đắc địa tại hai thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng không qua đấu giá, đồng thời xin giảm giá, giảm hệ số sinh lợi và xin được hưởng nhiều ưu đãi khác... trái với quy định của Nhà nước.
Sau khi được giao quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của 7 nhà, đất công sản nêu trên, Phan Văn Anh Vũ đã tiến hành chuyển quyền sử dụng đất từ công ty sang cho cá nhân mình; hoặc liên kết kinh doanh, chuyển nhượng cho cá nhân, tổ chức khác nhằm thu lợi bất chính; hoặc không triển khai dự án, không có bất cứ hoạt động nghiệp vụ nào phục vụ cho ngành công an; gây thiệt hại về tài sản cho Nhà nước.