Nợ công tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ
Hôm nay (25/5), Quốc hội thảo luận Luật quản lý ngoại thương và nợ công | |
Dự thảo luật Hình sự bổ sung tội về vi phạm kinh doanh đa cấp |
Việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công 2009 là cần thiết
Theo Tờ trình về dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi), Luật Quản lý nợ công đã tạo điều kiện tăng cường quản lý nợ chặt chẽ, đảm bảo trả nợ trong và ngoài nước của Chính phủ đầy đủ, đúng hạn; đảm bảo trong giới hạn an toàn được Quốc hội phê duyệt.
Đến cuối năm 2016, ước tỷ lệ nợ công ở mức 63,7% so với GDP, nợ của Chính phủ ở mức 52,6% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia ở mức 44,3% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ là 14,8% tổng thu ngân sách Nhà nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nội dung tờ trình của Chính phủ cũng chỉ ra quá trình quản lý nợ công theo quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2009 cũng đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế.
Về mặt pháp luật, còn có quan điểm khác nhau về phạm vi nợ công, cần có thống nhất như việc có tính các khoản nợ phát sinh từ điều hành ngân sách, nợ của doanh nghiệp Nhà nước, nợ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vào nợ công hay không.
Ngoài ra, các quy định về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, cấp và quản lý bảo lãnh của Chính phủ cũng đã bộc lộ những hạn chế cả về đối tượng, điều kiện cho vay lại, cấp bảo lãnh và cơ chế quản lý, giám sát sử dụng vốn vay, kiểm soát rủi ro đối với bảo lãnh Chính phủ.
Về công tác quản lý nợ công cũng đã bộc lộ một số bất cập như nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ trong ngắn hạn lớn, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Việc quản lý, sử dụng vốn vay còn bất cập; phân bổ vốn đầu tư từ nguồn vốn vay nợ công còn dàn trải và hiệu quả đầu tư chưa cao.
Bên cạnh đó, đã phát sinh những rủi ro từ các dự án sử dụng vốn vay của Chính phủ và vốn vay Chính phủ bảo lãnh dẫn đến không trả được nợ, Chính phủ phải trả nợ thay; thiếu gắn kết giữa quyết định đầu tư với cân đối nghĩa vụ trả nợ...
Tại phiên họp sáng nay 25/5, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng phát biểu, việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công 2009 là cần thiết.
Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng. Ảnh: Cafef. |
Hạn chế của Luật Quản lý nợ công là do phụ thuộc vào tăng trưởng vốn
Nguyên nhân Luật Quản lý nợ công còn nhiều hạn chế, theo Chính phủ, là bởi kinh tế trong nước đang phát triển dựa vào vốn là chính. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, áp lực vốn đầu tư lớn trong khi tích lũy nội địa nền kinh tế còn mỏng, quy mô thị trường vốn trong nước còn nhỏ, hạn chế về khả năng cung ứng vốn trung, dài hạn và tác động của kinh tế thế giới.
Về chủ quan, nhận thức về nợ công còn hạn chế, phần nào vẫn còn tâm lý “bao cấp” từ nhà nước, nhất là vốn ODA và trái phiếu Chính phủ; năng lực của một số chủ dự án còn hạn chế; vẫn còn tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư công, vốn vay công; chức năng, nhiệm vụ quản lý nợ công còn chồng chéo, chưa gắn trách vay và trả nợ với việc phân bổ, sử dụng nợ công;
Cũng theo nội dung tờ trình, việc kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, quyết toán và báo cáo thực hiện đối với vấn đề nợ công chưa được chú trọng đúng mức đòi hỏi phải có điều chỉnh khuôn khổ pháp lý nhằm chủ động quản lý, phòng ngừa và xử lý các rủi ro phát sinh trong công tác cho vay lại, công tác cấp và quản lý bảo lãnh của Chính phủ.
Theo quy định của dự thảo luật Chính phủ trình, trong thời gian tới, thẩm quyền quyết định chỉ tiêu an toàn nợ công thuộc Quốc hội. “Đối với chỉ tiêu an toàn nợ công bao gồm các chỉ tiêu nợ công so với GDP; nợ Chính phủ so với GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu Ngân sách Nhà nước, là những chỉ tiêu quan trọng. Vì vậy, dự thảo Luật quy định Quốc hội quyết định các chỉ tiêu an toàn nợ công” - Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng phát biểu tại phiên họp sáng 25/5.