Nguồn cung xi măng dự báo tiếp tục dư thừa trong thời gian tới
Theo Hiệp hội xi măng Việt Nam (VNCA), trong tháng 10 toàn ngành sản xuất hơn 6,3 triệu tấn tăng nhẹ so với tháng 9. Tiêu thụ xi măng nội địa trong tháng 10 đạt 5,38 triệu tấn bằng tăng 16% so với tháng 9 và tăng nhẹ so với cùng kỳ năm 2021.
Việt Nam là quốc gia có năng lực sản xuất xi măng đứng thứ ba thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ, với khả năng sản xuất khoảng 107 triệu tấn/năm.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Quang Cung, Chủ tịch VNCA thừa nhận, thách thức lớn của ngành hiện tại là tình trạng mất cân đối cung - cầu. Dư cung lớn và phụ thuộc vào xuất khẩu là thực tế của ngành xi măng trong những năm gần đây.
Sau năm 2021 lập kỷ lục về xuất khẩu xi măng, clinker gần 46 triệu tấn, xuất khẩu những tháng gần đây đã sụt giảm mạnh do sự suy yếu của lĩnh vực bất động sản dân dụng tại Trung Quốc vốn chiếm 30 - 35% tổng tiêu thụ xi măng của quốc gia này. Đây là nguyên nhân chính khiến sản lượng clinker, xi măng xuất khẩu của Việt Nam suy giảm.
Trong khi đó, thị trường lớn thứ hai là Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi tình trạng vận tải biển khó khăn và giá cước cao, kèm theo thuế chống bán phá giá trên 10% được áp dụng với xi măng nhập khẩu từ Việt Nam.
Tình trạng dư cung và cạnh tranh gay gắt trong ngành xi măng được dự báo sẽ tiếp tục diễn ra trong năm 2023.
Theo Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDIRECT, ngành xi măng Việt Nam đang ở trong tình trạng dư thừa nguồn cung khi công suất sản xuất vượt quá nhu cầu tại thị trường trong nước những vẫn đang thiếu các nhà máy sản xuất xi măng quy mô lớn.
Vừa qua, tại Thanh Hóa, dây chuyền 4 nhà máy Xi măng Long Sơn có công suất 2,5 triệu tấn xi măng/năm đã đi vào hoạt động, nâng quy mô công suất xi măng tại địa phương này lên gần 30 triệu tấn/năm.
Lãnh đạo Công ty Xi măng Nghi Sơn (Thanh Hóa) nhìn nhận, với quy mô công suất lớn như hiện tại, thị trường nội địa có hạn, các doanh nghiệp xi măng vẫn phải tập trung khai thác thêm các thị trường xuất khẩu mới. Việc xuất khẩu cũng gặp nhiều khó khăn, khi chính sách ở mỗi nước khác nhau, nhiều thị trường áp dụng hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu.
Một vấn đề nữa mà ngành xi măng phải đương đầu trong năm nay và năm 2023 là xuất khẩu khó hơn do các nước nhập khẩu xi măng, clinker tiếp tục thực hiện nhiều chính sách bảo hộ sản xuất xi măng trong nước, áp dụng các hàng rào kỹ thuật thương mại, giá cước vận chuyển cao...
Ngoài ra, theo Nghị định số 101 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122 và Nghị định số 57 từ ngày 1/1/2023, sẽ điều chỉnh tăng thuế xuất khẩu đối với mặt hàng clinker từ 5% lên 10% nhằm hạn chế xuất khẩu sản phẩm dùng nhiều nguyên liệu, nhiên liệu và tài nguyên khoáng sản không tái tạo.
Khi thuế, chi phí tăng lên, giá xuất khẩu sẽ trở nên đắt đỏ hơn, các quốc gia nhập khẩu mặt hàng này sẽ càng phải cân nhắc nhiều hơn để lựa chọn nhập khẩu từ quốc gia nào có giá thành hợp lý nhất. Điều này dự báo kênh xuất khẩu trong những năm tiếp theo không có nhiều cơ hội tăng trưởng.
VNCA cho rằng ngành xi măng sẽ phải tiếp tục kỳ vọng vào những tín hiệu tích cực từ việc giải ngân mạnh mẽ của Chính phủ đối với nhiều dự án đầu tư công trong năm 2022 - 2023 sẽ bù đắp phần nào sự sụt giảm của thị trường xuất khẩu.