Kiểm toán Nhà nước: Giá đền bù đất dự án Vành đai 3 TP HCM cao gấp 1,7 lần giá dự kiến đấu giá
Mới đây, Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã có báo cáo về dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 3 TP HCM gửi Quốc hội, theo Báo Đầu tư.
Giá đền bù cao gấp 1,7 lần đơn giá đất thương mại dự kiến đấu giá
Theo KTNN, về tổng mức đầu tư, trong báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (Báo cáo NCTKT) dự án đường Vành đai 3 TP HCM, đơn giá trung bình dự kiến đền bù đất dân cư trên địa bàn TP HCM trong khái toán cao gấp 1,7 lần đơn giá đất thương mại dự kiến đấu giá.
Cụ thể, TP HCM sẽ tổ chức bán đấu giá các khu đất dọc theo dự án với giá dự kiến 15 triệu đồng/m2 trong khi giá đền bù đất dân cư trong công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) là 26 triệu đồng/m2 (10.040 tỷ đồng/38,5 ha).
KTNN còn chỉ ra rằng, diện tích đất dân cư tính toán đền bù tại tỉnh Bình Dương cao hơn diện tích trong thuyết minh Báo cáo NCTKT là 11,2 ha và làm tăng chi phí GPMB lên 1.677 - 3.920 tỷ đồng (diện tích tính toán đền bù là 30 ha trong khi diện tích trong Báo cáo NCTKT là 18,78 ha, giá đền bù tính toán tại Bình Dương là 15 – 35 triệu đồng/m2).
Ngoài ra giá đền bù đất nông nghiệp tại Bình Dương đang được xác định trong Báo cáo NCTKT cao gấp 6 lần các địa phương lân cận (trung bình giá đền bù đất nông nghiệp tại TP HCM là 3,3 triệu/m2, Long An là 2,1 triệu/m2; Đồng Nai là 2,9 triệu /m2).
Từ đó, cơ quan kiểm toán đề nghị Chính phủ chỉ đạo UBND hai địa phương nói trên rà soát lại khái toán chi phí GPMB để đảm bảo chính xác và phù hợp với thực tế.
Phương án huy động vốn từ việc bán đầu giá đất khó khả thi
Về phương án huy động vốn, KTNN cũng cho biết, mặc dù HĐND các địa phương đã có nghị quyết cam kết bố trí vốn cho dự án, tuy nhiên nguồn vốn địa phương lại chủ yếu được đến từ việc khai thác quỹ đất dọc hai bên tuyến đường của dự án.
KTNN cho rằng, theo tiến độ bố trí vốn thì nguồn vốn địa phương tập trung nhiều trong năm 2023 - 2024 trong khi thời điểm này khó có thể tổ chức đấu giá đất thành công hoặc đấu giá thành công với mức giá thấp do dự án đang trong giai đoạn thi công.
Vì vậy, cơ quan kiểm toán nhấn mạnh, để đảm bảo nguồn vốn và khả năng cân đối vốn NSĐP một cách kịp thời cần có các giải pháp cụ thể, chủ động hơn. Trong khi đó, tờ trình của Chính phủ mới chỉ xác định trong trường hợp cần thiết báo cáo Chính phủ về việc phát hành trái phiếu địa phương để đảm bảo nguồn vốn của dự án.
Suất đầu tư đường Vành đai 4 - vùng Thủ đô cao gấp 1,2 lần Vành đai 3 TP HCM
So sánh với dự án đường Vành đai 4 Vùng Thủ đô Hà Nội (cùng được trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp này) KTNN cũng chi ra vấn đề cần làm rõ trong hình thức đầu tư.
Đó là, Chính phủ trình Dự án Vành đai 3 TP HCM sử dụng 100% vốn đầu tư công do theo tính toán trong phương án tài chính để thu hồi vốn cho nhà đầu tư BOT (13.806 tỷ đồng, tương ứng với 50% giá trị đường cao tốc không bao gồm chi phí GPMB và xây dựng đường song hành) mất 28 năm và được đánh giá là không khả thi.
Trong khi, tại dự án Vành đai 4 – Vùng thủ đô Hà Nội suất đầu tư cao hơn 1,2 lần. Cụ thể, dự án Vành đai 4 suất đầu tư trung bình 513 tỷ đồng/km, còn dự án Vành đai 3 trung bình 442 tỷ đồng/km.
Trong khi đó, và lưu lượng phương tiện của dự án Vành đai 4 dự kiến chỉ bằng 0,8 lưu lượng Vành đai 3 (dự kiến đến năm 2040 lưu lượng phương tiện trung bình của Vành đai 4 là 50.000 CPU/ngày/đêm; Vành đai 3 là 62.500 CPU/ngày/đêm) nhưng phương án tài chính tính toán khả thi với thời gian thu phí 21 năm.
Từ so sánh này, KTNN đề nghị Chính phủ chỉ đạo UBND TP HCM rà soát lại phương án tài chính đảm bảo lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp.
Vành đai 3 TP HCM cần 28 năm để thu hồi vốn, khó khả thi
Liên quan đến cơ chế đặc thù, Chính phủ đề xuất, sau khi Dự án đưa vào khai thác sử dụng sẽ tổ chức thu phí để thu hồi vốn đầu tư cho NSĐP và NSTW tương ứng với phần vốn góp. Tuy nhiên, theo nội dung Báo cáo NCTKT khi huy động vốn BOT với giá trị 13.806 tỷ đồng (50% giá trị đường cao tốc không bao gồm GPMB và đường đô thị) thì dự án cần tới 28 năm để thu hồi vốn.
Như vậy, khi nhà nước đầu tư 100% với tổng số vốn là 75.378 tỷ đồng (gấp hơn 5 lần) thì việc thu phí để hoàn vốn là khó khả thi.
Mặt khác, đến nay chưa có quy định cụ thể về thu phí sử dụng dịch vụ đường bộ cao tốc do nhà nước đầu tư để làm cơ sở triển khai thực hiện, đồng thời Chính phủ cần xem xét, xây dựng phương án thu phí cụ thể và có cơ chế phân chia nguồn thu phù hợp giữa Trung ương và địa phương (vì vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn NSTW và NSĐP) để đảm bảo tính khả thi, thu hồi hoàn trả vốn đầu tư.
Về tiến độ của dự án, theo tờ trình thì chuẩn bị dự án trong năm 2022-2023; GPMB, tái định cư từ quý III/2022 – hoàn thành vào quý II/2024; xây lắp khởi công quý IV/2023; cơ bản hoàn thành đường cao tốc năm 2025 hoàn thành toàn dự án năm 2026.
KTNN cho rằng, để đảm bảo tiến độ thực hiện Dự án hoàn thành theo kế hoạch, Chính phủ cần đưa ra mốc thời hạn hoàn thành từng nội dung của dự án và các bên tham gia thực hiện dự án phải cam kết thực hiện đúng thời hạn quy định tương tự như Dự án cao tốc Bắc Nam phía Đông đã thực hiện như: mốc thời gian hoàn thành công tác lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, công tác GPMB, công tác thiết kế dự toán, công tác lựa chọn Nhà thầu...
Theo tờ trình của Chính phủ, dự án Vành đai 4 TP HCM có tổng chiều dài tuyến là 76,34 km (bao gồm: TP HCM 47,5 km; Đồng Nai 11,26 km; Bình Dương 10,76 km; Long An 6,8 km).
Dự án được đề xuất đầu tư công, với sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 75.378 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Trung ương (NSTW) và ngân sách địa phương (NSĐP).