Giá tiêu hôm nay 27/7: Ổn định trở lại, cao su SHFE tăng không quá 0,1%
Cập nhật giá tiêu
Giá tiêu trong nước
Theo khảo sát, giá tiêu đồng loạt ổn định sau khi giảm nhẹ vào hôm qua, hiện đang dao động trong khoảng 66.500 - 69.500 đồng/kg.
Theo đó, hai tỉnh Gia Lai và Đồng Nai lần lượt ghi nhận mức giá 66.500 đồng/kg và 67.000 đồng/kg.
Kế đến là Đắk Lắk và Đắk Nông với chung mức giá thu mua 67.500 đồng/kg.
Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu lần lượt đi ngang tại mức 68.500 đồng/kg và 69.500 đồng/kg.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát) |
Giá thu mua (Đơn vị: đồng/kg) |
Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: đồng/kg) |
Đắk Lắk |
67.500 |
- |
Gia Lai |
66.500 |
- |
Đắk Nông |
67.500 |
- |
Bà Rịa - Vũng Tàu |
69.500 |
- |
Bình Phước |
68.500 |
- |
Đồng Nai |
67.000 |
- |
Giá tiêu thế giới
Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) ngày 26/7 (theo giờ địa phương), giá tiêu thế giới so với ngày 25/7 như sau:
- Tiêu đen Lampung (Indonesia): ở mức 3.726 USD/tấn, giảm 0,16%
- Tiêu đen Brazil ASTA 570: ở mức 2.950 USD/tấn, không đổi
- Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA: ở mức 4.900 USD/tấn, không đổi
Tên loại |
Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 25/7 |
Ngày 26/7 |
% thay đổi |
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia) |
3.732 |
3.726 |
-0,16 |
Tiêu đen Brazil ASTA 570 |
2.950 |
2.950 |
0 |
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA |
4.900 |
4.900 |
0 |
- Tiêu trắng Muntok: ở mức 6.451 USD/tấn, giảm 0,17%
- Tiêu trắng Malaysia ASTA: ở mức 7.300 USD/tấn, không đổi
Tên loại |
Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn) |
||
Ngày 25/7 |
Ngày 26/7 |
% thay đổi |
|
Tiêu trắng Muntok |
6.462 |
6.451 |
-0,17 |
Tiêu trắng Malaysia ASTA |
7.300 |
7.300 |
0 |
Theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong 18 ngày đầu tháng 7/2023, giá hạt tiêu đen tại thị trường nội địa nhìn chung biến động trong biên độ hẹp (tăng/giảm 500 đồng/kg) và ổn định so với cuối tháng 6/2023.
Ghi nhận vào ngày 18/7, giá hạt tiêu đen tại thị trường nội địa ổn định ở mức 67.000 – 70.000 đồng/kg (tùy từng khu vực khảo sát).
Song song đó, giá hạt tiêu trắng được ghi nhận ở mức 101.000 đồng/kg, ổn định so với cuối tháng 6/2023, nhưng vẫn thấp hơn 106.000 đồng/kg cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam trong tháng 6/2023 đạt 21,23 nghìn tấn, trị giá xấp xỉ 76,74 triệu USD, giảm 26,6% về lượng và giảm 14,6% về trị giá so với tháng 5/2023, so với tháng 6/2022 giảm 12,2% về lượng và giảm 23,2% về trị giá.
Trong quý II/2023, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam đạt 76,61 nghìn tấn, trị giá 250,08 triệu USD, tăng 0,4% về lượng và tăng 6,9% về trị giá so với quý I/2023, so với quý II/2022 tăng 8,4% về lượng, nhưng giảm 19,9% về trị giá.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam đạt xấp xỉ 152,68 nghìn tấn, trị giá 483,17 triệu USD, tăng 23,6% về lượng, nhưng giảm 13,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Cập nhật giá cao su
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 8/2023 đạt mức 202,6 yen/kg, tăng 0,59% (tương đương 1,2 yen/kg) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 8/2023 được điều chỉnh lên mức 12.120 nhân dân tệ/tấn, tăng 0,04% (tương đương 5 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó.
Theo thống kê của Cơ quan Hải quan Trung Quốc, trong 5 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc nhập khẩu 3,42 triệu tấn cao su (HS: 4001, 4002, 4003, 4005), với trị giá 5,11 tỷ USD, tăng 16,4% về lượng, nhưng giảm 8,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Bờ Biển Ngà và Nga là 5 thị trường lớn nhất cung cấp cao su cho Trung Quốc. Trừ Malaysia, lượng cao su nhập khẩu từ các thị trường này đều tăng khá so với cùng năm 2022.
Trong 5 tháng đầu năm 2023, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc với 565,15 nghìn tấn, trị giá 767,99 triệu USD, tăng 22,5% về lượng, nhưng giảm 3,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Thị phần cao su Việt Nam chiếm 16,49% trong tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2023, cao hơn so với mức 15,67% của 5 tháng đầu năm 2022, theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương).