Giá cà phê hôm nay 29/7: Đi ngang trong ngày đầu tuần, giá tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 500 đồng/kg
Cập nhật giá cà phê
Giá cà phê hôm nay không đổi ở các tỉnh khu vực Tây Nguyên dao động trong khoảng 32.200 - 33.100 đồng/kg. Trong đó, giá cà phê cao nhất ghi nhận tại Đắk Lắk, thấp nhất tại Lâm Đồng, theo tintaynguyen.com.
Giá cà phê quanh cảng TP HCM đi ngang ở mức 34.400 đồng/kg.
Tỉnh /huyện (khu vực khảo sát) | Giá thu mua Đơn vị: VNĐ/kg |
---|---|
LÂM ĐỒNG | |
— Bảo Lộc (Robusta) | 32.300 |
— Di Linh (Robusta) | 32.200 |
— Lâm Hà (Robusta) | 32.200 |
ĐẮK LẮK | |
— Cư M'gar (Robusta) | 33.200 |
— Ea H'leo (Robusta) | 33.100 |
— Buôn Hồ (Robusta) | 33.100 |
GIA LAI | |
— Ia Grai (Robusta) | 33.000 |
ĐẮK NÔNG | |
— Gia Nghĩa (Robusta) | 33.000 |
KON TUM | |
— Đắk Hà (Robusta) | 33.200 |
HỒ CHÍ MINH | |
— R1 | 34.400 |
Tại thị trường thế giới, giá cà phê robusta giao trong tháng 9 giảm 1,5% xuống 1.337 USD/tấn. Giá cà phê arabica giảm 1% xuống 99,7 UScent/pound.
Theo số liệu thống kê từ Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), nhập khẩu cà phê của Ý trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 đạt bình quân 581.133 tấn/năm. Quý I/2019, nhập khẩu cà phê của Ý đạt 153.286 tấn, trị giá 383 triệu USD, giảm 2,7% về lượng, giảm 10,1% về lượng so với quý IV/2019; giảm 1,1% về lượng và giảm 15,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Về chủng loại: Ý nhập khẩu chủ yếu chủng loại cà phê chưa rang và chưa khử caffein có mã HS 090111, chiếm 83,7% trong tổng trị giá nhập khẩu cà phê của nước này trong quý I/2019, đạt 334,24 triệu USD, giảm 6,8% so với quý IV/2018 và giảm 15% so với quý I/2018.
Nhập khẩu cà phê rang (chưa khử caffein) mã HS 090121 của Ý quý I/2019 đạt 39,36 triệu USD, giảm 30,4% so với quý IV/2018 và giảm 23,3% so với quý I/2018.
Cập nhật giá hồ tiêu
Giá tiêu hôm nay ở khu vực Tây Nguyên hôm nay ở khu vực Tây Nguyên hầu như không đổi ở mức 43.000 - 45.500 đồng/kg, theo tintaynguyen.com. Duy nhất tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ghi nhận giá tiêu tăng 500 đồng/kg.
Tỉnh /huyện (khu vực khảo sát) | Giá thu mua Đơn vị: VNĐ/kg |
---|---|
ĐẮK LẮK | |
— Ea H'leo | 44.500 |
GIA LAI | |
— Chư Sê | 43.500 |
ĐẮK NÔNG | |
— Gia Nghĩa | 44.500 |
BÀ RỊA - VŨNG TÀU | |
— Tiêu | 45.500 |
BÌNH PHƯỚC | |
— Tiêu | 44.500 |
ĐỒNG NAI | |
— Tiêu | 43.000 |
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu hạt tiêu trong 15 ngày đầu tháng 7/2019 đạt 11,09 nghìn tấn, trị giá 28,2 triệu USD, tăng 6,6% về lượng, nhưng giảm 11,6% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.
Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/7/2019, xuất khẩu hạt tiêu đạt 187,7 nghìn tấn, trị giá 479,8 triệu USD, tăng 32% về lượng, nhưng giảm 0,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018. Giá xuất khẩu trung bình hạt tiêu trong 15 ngày đầu tháng 7/2019 đạt 2.544 USD/ tấn, tăng 3,8% so với mức giá xuất khẩu trung bình tháng 6/2019.
Tháng 6/2019, xuất khẩu hạt tiêu đạt 31 nghìn tấn, trị giá 76 triệu USD, giảm 18,4% về lượng và giảm 18,6% về trị giá so với tháng 5/2019, nhưng tăng 40,8% về lượng và tăng 7,8% về trị giá so với tháng 6/2018.
Lũy kế 6 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu hạt tiêu đạt 176,8 nghìn tấn, trị giá 452,12 triệu USD, tăng 34,1% về lượng, nhưng giảm 0,1% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2018.
Tháng 6/2019, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam sang một số thị trường tăng so với tháng 5/2019 như Bỉ, Australia, Thái Lan, Đức, Hàn Quốc, trong khi đó giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu sang các thị trường giảm, gồm Hà Lan, Canada, Tây Ban Nha.
So với tháng 6/2018, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu sang thị trường Bỉ và Angeri tăng, còn giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu sang các thị trường khác đều giảm.
Cập nhật giá cao su
Trên sàn TOCOM (Nhật Bản), giá cao su giao tháng 9/2019 lúc 10h55 ngày 29/7 (giờ địa phương) giảm 1,7% xuống 221 yen/kg.
Trong 10 ngày giữa tháng 7/2019, giá mủ cao su nguyên liệu trong nước giảm theo xu hướng giá thế giới. Ngày 22/7/2019, tại Đắk Lắk giá thu mua mủ nước tại vườn và tại nhà máy giảm 15 đ/độ TSC so với cuối tháng 6/2019, hiện giao dịch ở mức 255 đ/độ TSC và 260 đ/ độ TSC.
Từ đầu tháng 7/2019 đến nay, Công ty TNHH MTV cao su Lộc Ninh 6 lần điều chỉnh giá thu mua mủ cao su chủ yếu theo xu hướng giảm,