Đồng bằng sông Cửu Long kỳ vọng mới từ dòng vốn FDI
Cửa biển Sông Đốc, một trong những cửa biển lớn nhất của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Huỳnh Anh - TTXVN
Năm 2025 đánh dấu bước ngoặt của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sau hợp nhất địa giới hành chính. Nhìn lại một năm hút đầu tư nước ngoài (FDI) ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều chuyên gia kỳ vọng mới từ dòng vốn ngoại, chỉ ra nhận diện cơ hội, cũng như thách thức và nêu giải pháp nhằm khơi thông dòng vốn lớn chảy mạnh mẽ vào Đồng bằng sông Cửu Long trong năm 2026.
*Hút vốn ngoại từ cơ hội mới
Với góc nhìn từ Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc VCCI khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đánh giá, năm 2025 có nhiều biến động trong và ngoài nước. Đối với quốc tế, sự bảo hộ của các thị trường lớn, đặc biệt là ở Hoa Kỳ đã làm ảnh hưởng rất lớn đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều này làm cho các dòng vốn ở nước ngoài chững lại, do các nhà đầu có cân nhắc và xem xét đầu tư vào các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tính riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng như các địa bàn khác trên cả nước, trong năm 2025 cũng đã chững lại trong dòng thu hút vốn đầu tư.
Ông Nguyễn Phương Lam cho rằng, trong bối cảnh đó, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng chịu tác động chung và ghi nhận mức thu hút FDI thấp hơn so với năm 2024. Tính từ đầu năm 2025 đến nay, toàn vùng thu hút được 23 dự án FDI với tổng vốn đăng ký khoảng 703 triệu USD. Nguồn vốn này tập trung chủ yếu tại ba địa phương là thành phố Cần Thơ với 2 dự án, tổng vốn 316 triệu USD; tỉnh Vĩnh Long với 8 dự án, tổng vốn 218 triệu USD và tỉnh Đồng Tháp với 13 dự án, tổng vốn 169 triệu USD.
Về mặt thuận lợi, Đồng bằng sông Cửu Long đang chia sẻ cơ hội chung của cả nước từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết. Các hiệp định thương mại tự do này tạo ra “thế và lực” mới, giúp Việt Nam nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm nhiều hơn, từng bước hình thành lại các dòng vốn đầu tư trong trung và dài hạn.
Trao đổi với phóng viên TTXVN, Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp, chuyên gia kinh tế nghiên cứu về Đồng bằng sông Cửu Long nhận định, năm 2025 có nhiều thách thức, nhưng cũng mở ra cơ hội thu hút đầu tư cho khu vực này. Việc hợp nhất các tỉnh thành đã tạo ra các đơn vị hành chính quy mô lớn hơn, mở ra dư địa cho việc tái bố trí hạ tầng và quy hoạch phát triển.
“Tuy nhiên, thách thức vẫn còn đó khi hạ tầng giao thông Đồng bằng sông Cửu Long mặc dù đang nổi lên các điểm sáng, nhưng chưa đồng bộ, đẩy chi phí logistics lên cao, cùng với tác động ngày càng gay gắt của biến đổi khí hậu lên hoạt động sản xuất. Sau hợp nhất, bộ máy quản lý cũng cần thời gian để vận hành trơn tru nhằm tạo niềm tin về chính sách cho nhà đầu tư. Có thể nói, chúng ta đang chuyển từ trạng thái ổn định ở mức thấp sang chu kỳ phát triển mới với nhiều tín hiệu tích cực”. Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp thông tin.
Theo ông Trần Hữu Hiệp, vùng Đồng bằng sông Cửu Long sở hữu những lợi thế so sánh mà ít vùng nào trên thế giới có được, đó là nền tảng sản xuất nông nghiệp quy mô lớn và nguồn nguyên liệu dồi dào, đáp ứng nhu cầu an ninh lương thực toàn cầu. Vấn đề cốt lõi không nằm ở nội lực yếu mà là nội lực ấy chưa được tổ chức bài bản theo mô hình chuỗi giá trị hiện đại. Tiềm năng của vùng lâu nay được nhắc đến nhiều nhưng chưa được phát huy đúng với kỳ vọng của các nhà đầu tư.
Điều các tập đoàn đa quốc gia tìm kiếm là một hệ sinh thái hoàn chỉnh, từ vùng nguyên liệu chuẩn hóa, nhà máy công nghệ cao đến hệ thống logistics và cảng biển đạt chuẩn. Trong khi, nội lực của Đồng bằng sông Cửu Long hiện tại còn phân tán, manh mún với đa số doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, thiếu liên kết chặt chẽ trong quy hoạch phát triển công nghiệp giữa các địa phương. Sự thiếu hụt các dự án FDI mang tính dẫn dắt và các trung tâm đổi mới sáng tạo khiến vùng thiếu đi sức hút hội tụ cần thiết.
*Yêu cầu tái cấu trúc không gian kinh tế vùng
Các chuyên gia cho rằng hiện, có một số nguyên nhân cơ bản làm nhà đầu tư ngại chọn Đồng bằng sông Cửu Long như cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém, cách xa trung tâm TP HCM; chất lượng nguồn nhân lực thấp; không có quỹ đất sạch...
Phân tích về các điểm nghẽn này, Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp khẳng định, toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã nhận diện được nhiều năm qua, nhưng lại chậm khơi thông. Hạ tầng giao thông chính là rào cản lớn nhất, khiến chi phí logistics tại vùng cao hơn từ 20–30% so với các trung tâm công nghiệp như TP HCM và các tỉnh Đông Nam Bộ, từ đó làm giảm đáng kể hiệu quả kinh tế của các dự án quy mô lớn.
Cảng quốc tế Long An . Ảnh: Bùi Giang - TTXVN
Thu hút đầu tư không chỉ hoàn toàn do khoảng cách địa lý xa trung tâm mà là chất lượng kết nối không gian phát triển và chi phí vận chuyển. Đối với vấn đề nhân lực, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt khoảng 17–18%, thấp hơn so bình quân chung cả nước, không đáp ứng yêu cầu nhân lực cho các ngành yêu cầu kỹ thuật cao như công nghệ sinh học hay logistics thông minh. Quỹ đất sạch cũng là một bài toán chưa được các địa phương có lời giải cho nhà đầu tư; trong khi giải phóng mặt bằng mất nhiều thời gian.
Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp cũng bổ sung hai yếu tố quan trọng khác làm giảm sức hấp dẫn của vùng. Thứ nhất là tác động của biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến tính bền vững của các dự án đầu tư dài hạn. Thứ hai là sự thiếu hụt một hệ sinh thái dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư chuyên nghiệp về pháp lý, tài chính và đào tạo nhân lực tại chỗ. Tổng hòa các yếu tố này khiến Đồng bằng sông Cửu Long dù có tiềm năng nhưng vẫn chưa thể bứt phá mạnh mẽ so với các vùng kinh tế trọng điểm khác.
Việc hợp nhất các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long tạo ra một thị trường lớn hơn, tiềm năng hơn nhưng cũng đặt ra yêu cầu về quy hoạch, hạ tầng, nhân lực đồng bộ để tăng hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư.
“Việc hợp nhất không chỉ đơn thuần là phép cộng cơ học về diện tích và dân số, mà nó tạo ra dư địa để tái cấu trúc lại không gian kinh tế vùng một cách thực chất. Một thị trường nội vùng lớn hơn cùng hành lang pháp lý thống nhất sẽ giúp giảm chi phí giao dịch đáng kể cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, cơ hội này chỉ hiện thực hóa được khi chúng ta cập nhật quy hoạch vùng theo hướng tối ưu hóa: bố trí lại các cụm công nghiệp, đô thị và trục logistics theo một cấu trúc hiệu quả hơn thay vì dàn trải như trước”, ông Trần Hữu Hiệp nhấn mạnh.
Nguồn nhân lực cũng cần được tổ chức lại theo hướng tập trung, liên kết đào tạo giữa các đơn vị hành chính mới để phục vụ trúng đích cho các ngành đang khát nhân lực như chế biến sâu, quản trị chuỗi cung ứng và năng lượng sạch. Hợp nhất mang lại thời cơ vàng, nhưng nó chỉ trở thành lợi thế cạnh tranh thực sự khi đi kèm với một cơ chế điều phối đủ mạnh và chiến lược đầu tư hạ tầng đồng bộ, tránh tình trạng "bình mới rượu cũ".
Giám đốc VCCI khu vực Đồng bằng sông Cửu Long Nguyễn Phương Lam nhận định: “Tôi cho rằng năm 2025 là một cột mốc rất quan trọng. Việc hợp nhất các địa phương buộc các tỉnh, thành trong vùng phải định hình lại không gian phát triển và quy mô điều hành kinh tế. Hiện nay, Đồng bằng sông Cửu Long còn 5 tỉnh, thành, điều này chắc chắn sẽ dẫn đến việc điều chỉnh quy hoạch tổng thể theo hướng thống nhất và đồng bộ hơn.”
Cũng theo ông Nguyễn Phương Lam, so với trước đây, việc tìm kiếm sự thống nhất giữa 13 tỉnh, thành là rất khó khăn, thì nay sự đồng bộ giữa 5 địa phương sẽ thuận lợi hơn nhiều. Đây là lợi thế để hình thành vai trò rõ nét của từng địa phương, tăng cường liên kết vùng và tạo ra một tổng thể phát triển thống nhất, giúp nhà đầu tư nhận diện rõ chiến lược dài hạn và yên tâm đầu tư bền vững.
Năm 2026 là giai đoạn quan trọng để Đồng bằng sông Cửu Long định hình lại chiến lược thu hút FDI. Ảnh: Trọng Đạt – TTXVN
*Kiến tạo hệ sinh thái FDI thế hệ mới
Năm 2026 là giai đoạn quan trọng để Đồng bằng sông Cửu Long định hình lại chiến lược thu hút FDI, tận dụng lợi thế hợp nhất tỉnh và giải quyết các vấn đề nội tại để trở thành điểm đến hấp dẫn, bền vững cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Để hiện thực hóa khát vọng này, Tiến sĩ Trần Hữu Hiệp đề xuất vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần kiến tạo hệ sinh thái FDI thế hệ mới. Trong ngắn hạn, ưu tiên hàng đầu là phải tạo ra sự thông thoáng về hạ tầng và thủ tục. Cần đẩy nhanh tiến độ các trục cao tốc trục dọc, trục ngang, đường ven biển, cầu vượt sông lớn. Đồng thời, các địa phương cần thực hiện nghiêm, hiệu quả cơ chế một cửa cho FDI vận hành thực chất để rút ngắn tối đa thời gian gia nhập thị trường cho doanh nghiệp. Việc thu hút có chọn lọc các dự án dẫn dắt trong lĩnh vực logistics kho lạnh và năng lượng tái tạo cũng cần được chú trọng ngay từ bây giờ.
Về trung hạn, Đồng bằng sông Cửu Long phải xây dựng được hệ sinh thái FDI gắn liền với các ngành chủ lực. Đó là các khu công nghiệp chuẩn quốc tế dành riêng cho chế biến thủy sản công nghệ cao, hydrogen xanh và trung tâm logistics nông nghiệp. Cần hình thành các trung tâm nghiên cứu và đổi mới sáng tạo để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản phẩm.
Về dài hạn, Đồng bằng sông Cửu Long phải định vị mình là vùng kinh tế nông nghiệp hiện đại của khu vực, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu. Điều này đòi hỏi sự chuyển đổi số toàn diện chuỗi cung ứng và xây dựng thương hiệu vùng vững chắc trong chuỗi giá trị toàn cầu. Khi tư duy phát triển được đổi mới song hành với hạ tầng và nhân lực được nâng tầm, Đồng bằng sông Cửu Long hoàn toàn có thể trở thành trung tâm công nghiệp thực phẩm hiện đại của Việt Nam trong thập kỷ tới.
Nói về giải pháp trước mắt và lâu dài cho phát triển kinh tế và thu hút FDI của Đồng bằng sông Cửu Long, ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc VCCI khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, năm 2026 là thời điểm rất quan trọng đối với sự phát triển của vùng.
Những định hướng từ Nghị quyết số 120/NQ - CP, ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu trước đây đang từng bước được hiện thực hóa bằng việc Chính phủ ưu tiên đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng, có thể nói là ở mức cao nhất cả nước. Đây chính là yếu tố then chốt để khắc phục nguyên nhân tụt hậu của vùng trong thời gian qua.
Trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu về lương thực, thực phẩm, đặc biệt là thực phẩm sạch ngày càng gia tăng, Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục giữ vai trò là vùng lợi thế chiến lược của Việt Nam. Để tận dụng cơ hội này và thúc đẩy tăng trưởng, vùng cần lựa chọn con đường phát triển bền vững, thận trọng trong thu hút đầu tư.
Trước hết, cần tập trung tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất là hạ tầng logistics, song hành với hạ tầng giao thông và cảng biển. Bên cạnh đó, cần hình thành các trung tâm sản xuất, chế biến tập trung, gắn với khu công nghiệp và chuỗi giá trị nông sản. Cùng với đó là việc xây dựng các chính sách đặc thù, ưu tiên cho những lĩnh vực then chốt như nông nghiệp công nghệ cao, chế biến và tiêu thụ nông sản. Đồng thời, phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực thông qua các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tiễn.
“Cuối cùng, mọi chiến lược phát triển của Đồng bằng sông Cửu Long cần được đặt trên nền tảng phát triển bền vững, gắn với tăng trưởng xanh, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bởi đây không chỉ là vùng trọng yếu của Việt Nam mà còn là một trong những đồng bằng quan trọng của thế giới”. Ông Nguyễn Phương Lam khẳng định.