4 vụ giao dịch nội gián làm rúng động lịch sử chứng khoán Mỹ
Xuyên suốt lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ, có rất nhiều trường hợp các cá nhân sử dụng quyền truy cập vào thông tin nội bộ nhằm giành lấy lợi thế không công bằng với các nhà đầu tư khác.
Dù Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Mỹ (SEC) có các qui định nhằm ngăn chặn giao dịch nội gián, chúng thường rất khó bị phát hiện vì các cuộc điều tra phải dựa vào rất nhiều phỏng đoán.
Một khi bị phát hiện, các trường hợp giao dịch nội gián sẽ thu hút rất nhiều sự chú ý của giới truyền thông, đặc biệt là khi người bị cáo buộc là một nhân vật công chúng mà danh tiếng sẽ bị hủy hoại nếu bị kết tội.
Dưới đây là 4 trường hợp đáng chú ý nhất về giao dịch nội gián theo tổng hợp của Investopedia.
Chủ tịch bán khống cổ phiếu chính ngân hàng mình
Sau sự sụp đổ của Phố Wall năm 1929, người ta phát hiện rằng ông Albert H. Wiggin, vị Chủ tịch đáng kính của ngân hàng Chase National Bank đã bán khống hơn 40.000 cổ phiếu của chính ngân hàng ông.
Bằng cách sử dụng các công ty của người thân trong gia đình nhằm che giấu giao dịch, Chủ tịch Wiggin đã dần gia tăng vị thế bán khống. Điều này cũng có nghĩa là ông ta sẽ được lợi nếu đạp ngân hàng mình đang dẫn dắt xuống bùn.
Vào thời điểm đó, chứng khoán Mỹ không có qui định cụ thể nào cấm lãnh đạo cấp cao bán khống cổ phiếu công ty của chính mình. Do đó, khi cổ phiếu của Chase National Bank bị xả mạnh sau vụ sụp đổ của Phố Wall năm 1929, Wiggin thu về 4 triệu USD một cách hợp pháp.
Không chỉ thu lời lớn từ việc bán khống cổ phiếu chính công ty mình, Wiggin còn được công ty trả 100.000 USD lương hưu mỗi năm. Nhưng sau đó ông ta phải từ chối số tiền này dưới áp lực phản đối của công chúng và giới truyền thông.
Tình trạng thối nát của Phố Wall được phát hiện sau vụ sụp đổ năm 1929 đã thúc đẩy sự ra đời của Đạo luật SEC 1934.
Câu chuyện về Wiggins nổi tiếng đến mức nhiều người cho rằng các nhà soạn thảo Đạo luật SEC 1934 đã đặt biệt danh cho Mục 16, trong đó đề cập đến các quy định nhằm ngăn chặn và truy tố giao dịch nội gián là "Mục chống Wiggin".
Mua thông tin từ người trong cuộc
Ivan Boesky là một nhà đầu cơ khét tiếng với vụ bê bối giao dịch nội gián những năm 1980. Vụ bê bối này cũng liên quan tới vài nhân viên làm việc trong các ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ. Những người này mách nước cho Boesky về các thương vụ thâu tóm doanh nghiệp sắp tới.
Bắt đầu từ năm 1975, sau khi tự thành lập công ty riêng có tên Ivan F. Boesky & Company, Boesky kiếm được hàng đống tiền nhờ vào việc đầu cơ vào các thương vụ thâu tóm.
Đến năm 1987, một nhóm các công ty khởi kiện Boesky vì các thỏa thuận pháp lí gian dối về mối quan hệ đối tác giữa họ và công ty của ông ta. Từ đó, SEC bắt đầu điều tra về Boesky. SEC phát hiện rằng Boesky lập các quyết định đầu tư dựa trên thông tin nhận được từ người nội gián trong các công ty.
Boesky trả tiền cho nhân viên của ngân hàng đầu tư Drexel Burnham Lambert có liên quan tới bộ phận mua bán và sáp nhập, đổi lại, những nhân viên này đưa cho Boesky thông tin giúp ông ta ra quyết định mua cổ phiếu.
Nhờ vậy, Boesky đã trục lợi từ gần như tất cả các thương vụ M&A lớn trong thập niên 80, bao gồm Getty Oil, Nabisco, Gulf Oil, Chevron, và Texaco.
Rốt cuộc, Boesky hợp tác và cung cấp thông tin cho SEC. Những thông tin này đã dẫn đến việc bắt giữ và kết án "vua trái phiếu rác" Michael Milken.
Boesky bị kết án tù 3,5 năm vì giao dịch nội gián và bị phạt 100 triệu USD. Dù được ra tù chỉ sau hai năm, ông ta bị cấm làm việc trong ngành chứng khoán vĩnh viễn.
Cựu nhà báo của Wall Street Journal
R. Foster Winans từng là một cây bút cho The Wall Street Journal, phụ trách chuyên mục khá nổi tiếng "Heard on the Street". Trong mỗi bài viết, Winans sẽ nhận định về một cổ phiếu. Giá các cổ phiếu này thường tăng hoặc giảm theo ý kiến trong bài của Winans.
Winas thỏa thuận với một nhóm các nhà môi giới, theo đó ông ta sẽ rò rỉ nội dung của các bài viết trong mục "Heard on the Street" – đặc biệt là về cổ phiếu ông sắp nhận định cho họ. Các nhà môi giới này sẽ mua vào cổ phiếu trước khi bài báo được đăng. Sau khi thu được lời, họ sẽ chia sẻ một phần lợi nhuận cho Winans.
Winans bị phát giác bởi SEC. Tuy nhiên, trường hợp của Winans khá phức tạp vì các bài báo là quan điểm cá nhân của Winans chứ không phải thông tin nội bộ của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, SEC vẫn kết tội Winans với lí do là thông tin về cổ phiếu trong các bài báo thuộc về The Wall Street Journal chứ không phải Winans.
Bán tháo trước khi tin xấu được công bố
Tháng 12/2001, Cơ quan Quản lí Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) tuyên bố rằng họ sẽ không phê duyệt một loại thuốc trị ung thư mới có tên Erbitux của công ty dược phẩm ImClone.
Vì Erbitux được kì vọng lớn là sẽ được phê duyệt, loại thuốc này có vai trò quan trọng trong kế hoạch phát triển của ImClone. Ngay sau tuyên bố của FDA, cổ phiếu của ImClone cắm đầu lao dốc. Trong khi nhiều nhà đầu tư bị thua lỗ, gia đình và bạn bè của CEO Samuel Waksal của Erbitux lại không hề hấn gì.
Sau đó, SEC phát hiện rằng trước khi quyết định của FDA được công bố, nhiều giám đốc trong công ty đã bán cổ phiếu của họ dựa theo hướng dẫn của ông Waksal. Vị CEO này cũng đã cố gắng bán cổ phiếu của chính mình.
Trên thực tế, nữ doanh nhân Martha Stewart đã bán 4.000 cổ phiếu của ImClone chỉ vài ngày trước khi có thông báo từ FDA. Vào thời điểm này, cổ phiếu của ImClone vẫn được giao dịch ở mức giá khá cao. Bà Stewart thu về gần 250.000 USD từ số cổ phiếu đã bán.
Vài tháng sau, giá ImClone nhanh chóng giảm từ 50 USD/cp xuống 10 USD/cp.
Bà Stewart tuyên bố đã đặt lệnh bán từ trước với nhà môi giới của mình. Nhưng thực chất bà đã được người môi giới mách nước rằng nhiều khả năng giá cổ phiếu ImClone sẽ giảm.
Cuối cùng bà Stewart phải từ chức CEO của công ty riêng của mình là Martha Stewart Living Omnidia. CEO của ImClone thì bị bắt, nhận bản án 7 năm tù và bị phạt 4,3 triệu USD vào năm 2003. Năm 2004, Stewart và người môi giới của bà cũng bị kết tội giao dịch nội gián. Bà Stewart bị kết án 5 tháng tù giam và bị phạt 30.000 USD.