World Bank hạ dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm nay xuống 4,8%
Theo Báo cáo Điểm lại tháng 8 "Việt Nam số hóa: Con đường đến tương lai" của World Bank công bố ngày 24/8, nền kinh tế Việt Nam dự kiến tăng trưởng khoảng 4,8% trong năm 2021 và sẽ đạt tốc độ tăng trưởng GDP trước đại dịch ở mức từ 6,5 đến 7% từ năm 2022.
Dự báo này được điều chỉnh giảm so với dự báo 6,8% cho năm 2021 trong Báo cáo Điểm lại kỳ trước ban hành vào tháng 12/2020, và còn phụ thuộc vào các rủi ro tiêu cực. Dự báo này cũng thấp hơn so với mục tiêu tăng trường 6% của Chính phủ trong năm nay.
Dự báo mới được đưa ra dựa trên giả định rằng đợt dịch đang diễn ra hiện nay sẽ từng bước được kiểm soát, tạo điều kiện cho nền kinh tế phục hồi trong quý IV.
Ngoài ra, phục hồi kinh tế cũng sẽ được hỗ trợ bằng cách đẩy nhanh triển khai thực hiện chiến dịch tiêm vắc xin diện rộng để đảm bảo ít nhất 70% dân số trưởng thành được tiêm chủng vào cuối năm, nhằm ngăn ngừa các đợt bùng phát nghiêm trọng mới. Bất kỳ thay đổi nào tới giả định trên cũng đều ảnh hưởng đến dự báo.
Viễn cảnh năm 2021 của nền kinh tế Việt Nam
Theo dự báo của World Bank, trong thời gian còn lại của năm 2021, chính sách tiền tệ vẫn sẽ nới lỏng thông qua triển khai thực hiện một số công cụ chính sách khác nhau và cho phép tái cơ cấu các khoản nợ.
Khi nền kinh tế thoát khỏi đợt dịch lần thứ tư, chính sách tài khóa sẽ hỗ trợ tổng cầu trong nước thông qua các biện pháp có lựa chọn và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.
Cân đối ngân sách và tỷ lệ nợ công trên GDP dự kiến sẽ xấu đi trong năm 2021. Gói hỗ trợ doanh nghiệp và các hộ gia đình lần hai chỉ ở mức khiêm tốn, nhưng nếu triển khai sẽ tương đương khoảng 0,5% GDP.
Tuy nhiên, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công được đẩy nhanh vẫn trong phạm vi ngân sách. Chính sách tiền tệ vẫn tạo thuận lợi để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp. Lạm pháp vẫn ở mức vừa phải.
Theo báo cáo của World Bank, khi nền kinh tế hồi phục, các chính sách hỗ trợ sẽ dần được gỡ bỏ. Từ năm 2022 trở đi, cơ quan thực hiện chính sách tiền tệ sẽ quay lại với quan điểm cẩn trọng nhằm cân đối giữa mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và mục tiêu kiểm soát lạm phát, đồng thời vẫn theo dõi chặt chẽ sức khỏe của khu vực tài chính.
Bội chi ngân sách cần giảm dần từ mức 6% GDP năm 2021 xuống 5,9% năm 2022 và 5,4% năm 2023, để mở đường cho quỹ đạo nợ bền vững từ trung đến dài hạn.
Trong trung hạn, các biện pháp củng cố tài khóa sẽ lại được thực hiện để đảm bảo bền vững nợ. Các cấp có thẩm quyền cần cải thiện hiệu quả thu ngân sách và hiệu suất chi tiêu, đặc biệt là chất lượng đầu tư công, nhằm đáp ứng sự gia tăng dự kiến về cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội có chất lượng mà Việt Nam sẽ cần trong thập niên tới.
Bên cạnh đó, cán cân vãng lai dự kiến vẫn thặng dư, mặc dù sẽ giảm từ 4,6% GDP năm 2020 xuống khoảng 0,5% GDP năm 2021.
Trong thời gian tới, xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng do có lợi thế cạnh tranh vững chắc trên các thị trường quốc tế và quyết định tiếp tục đa dạng hóa các đối tác thương mại, qua đó tạo ra cơ hội kinh tế, với tín hiệu gần đây là việc ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực. Dự kiến, Việt Nam sẽ có khả năng mở cửa lại cho du khách quốc tế vào năm 2022-2023.
Về cán cân tài chính, dòng vốn FDI dự kiến sẽ phục hồi lại mức như trước COVID-19, do được nâng đỡ bởi xu hướng tái cấu trúc các chuỗi giá trị toàn cầu, và nhu cầu đa dạng hóa các nguồn đầu vào sản xuất của nhiều chính phủ và công ty đa quốc gia.
Nền kinh tế vẫn phải đối mặt với rủi ro
Tuy nhiên, World Bank cũng cho rằng dự báo trên cần nhìn nhận thận trọng vì vẫn còn những bất định nghiêm trọng về quy mô và thời gian diễn ra đại dịch, trong đó có sự xuất hiện của các biến thể mới và tốc độ tiêm vắc xin ở Việt Nam và ở các quốc gia khác trên thế giới.
Nếu những rủi ro đó trở thành hiện thực, quá trình phục hồi kinh tế của Việt Nam sẽ chậm lại, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2021 sẽ thấp hơn mức dự báo 4,8%. Thời gian để quay lại xu hướng tăng trưởng như trước đại dịch và thực hiện củng cố tài khóa trong trung hạn cũng sẽ kéo dài hơn so với dự kiến.
Viễn cảnh kinh tế trong ngắn và trung hạn của Việt Nam phụ thuộc vào một số yếu tố như tốc độ tiêm vắc xin trong nước và diễn biến của đại dịch và quá trình phục hồi hoạt động kinh tế ở các quốc gia cạnh tranh xuất khẩu với Việt Nam. Bên cạnh đó, tăng trưởng yếu hơn so với kỳ vọng ở những thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có thể làm chậm quá trình phục hồi.
Quá trình phục hồi tại Mỹ, Liên minh Châu Âu và Trung Quốc đang diễn ra nhưng còn mong manh. Nếu một hoặc nhiều rủi ro nêu trên trở thành hiện thực, thì nhu cầu trong nước và xuất khẩu sẽ không hồi phục lại như dự kiến.
Trong kịch bản xấu, World Bank dự báo nền kinh tế vẫn có thể tăng trưởng ở mức 3,2% trong năm 2021 và 5,5% trong năm 2022. Lạm phát vẫn ở mức thấp, nhưng cân đối tài khóa và cán cân khu vực kinh tế đối ngoại sẽ không cải thiện được như dự báo trong kịch bản cơ sở từ năm 2021 trở đi.
Mặc dù triển vọng của Việt Nam vẫn tích cực, song theo dự báo của của World Bank, các cấp có thẩm quyền cần xử lý những rủi ro cao về tài khóa, tài chính và xã hội, bao gồm:
Xử lý những hệ quả xã hội của đại dịch: Tác động của đại dịch COVID-19 đến thị trường lao động và các hộ gia đình đã trở nên trầm trọng hơn sau đợt bùng phát dịch tháng 2 và tháng 4. Các cấp có thẩm quyền nên cân nhắc tăng cường các chương trình đảm bảo xã hội, về phạm vi bao phủ, đối tượng mục tiêu và mức hỗ trợ, nhằm đảm bảo những nạn nhân hiện tại và tương lai của cú sốc kinh tế và dịch bệnh nhận được hỗ trợ đầy đủ.
Cảnh giác với rủi ro khu vực tài chính đang tăng lên do khủng hoảng: Mặc dù tín dụng ngân hàng mới hoặc được tái cơ cấu cung cấp hỗ trợ đáng hoan nghênh cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng, nhưng cũng góp phần chuyển giao rủi ro từ khu vực kinh tế thực sang khu vực tài chính.
Cơ quan thực hiện chính sách tiền tệ sẽ cần thận trọng với rủi ro nợ xấu đang gia tăng, đặc biệt ở các ngân hàng có mức vốn hóa chưa đảm bảo trước đại dịch.
Cảnh giác với rủi ro tài khóa: Mặc dù Chính phủ vẫn còn đủ dư địa tài khóa, với tỷ lệ nợ công trên GDP rơi vào khoảng 55,3% GDP vào cuối năm 2020, nhưng kinh nghiệm quốc tế cho thấy tình hình tài khóa có thể xấu đi tương đối nhanh chóng nếu đợt bùng phát dịch hiện nay không sớm được kiểm soát hoặc các đợt dịch mới lại nổ ra trong những tháng tiếp theo.
Chính phủ có thể phải mở rộng gói hỗ trợ tài khóa, vốn còn khiêm tốn đến thời điểm này, trong khi thu ngân sách có thể chịu ảnh hưởng tiêu cực do nền kinh tế phục hồi yếu hơn so với kỳ vọng.
Tại thời điểm này, rủi ro tài khóa có vẻ vẫn trong tầm kiểm soát, nhưng vẫn cần tiếp tục được theo dõi sát sao, đặc biệt là vì rủi ro này liên quan đến sức khỏe tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước, dễ trở thành nợ tiềm tàng.