Vì sao tỷ lệ lấp đầy của nhiều khu công nghiệp chưa cao?
Phát biểu tại Đại hội Liên chi hội Tài chính Khu công nghiệp diễn ra chiều 25/3, TS. Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Chủ tịch Liên chi hội cho rằng nhìn lại cả quá trình phát triển hệ thống khu công nghiệp khu công nghiệp thời gian qua và kết quả thu hút thu hút đầu tư nước ngoài có thể nhận thấy, xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào các khu công nghiệp, khu kinh tế.
Hàng năm số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các khu công nghiệp, khu kinh tế chiếm tới 60 - 70% lượng vốn FDI thu hút được trong cả nước và vẫn có xu hướng tăng lên.
Tuy nhiên, việc thu hút FDI còn phụ thuộc khá nhiều vào bên ngoài từ yếu tố vốn, thị trường, xung đột địa chính trị...dẫn đến nhiều vấn đề còn tồn tại.
Trong đó, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp còn thấp, có đến 121/414 khu công nghiệp vẫn đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng, chưa tận dụng hết được một lượng vốn lớn về đất đai của nền kinh tế.
Nhiều khu công nghiệp tỷ lệ lấp đầy chưa cao
Theo TS. Thắng, nguyên nhân của tình trạng này là quy hoạch phát triển các khu công nghiệp tại một số địa phương chưa sát với nhu cầu phát triển và khả năng thu hút vốn đầu tư. Mô hình phát triển khu công nghiệp còn chậm đổi mới… thiếu vắng các khu công nghiệp sinh thái, khu công nghiệp đô thị - dịch vụ.
Bên cạnh đó, kết cấu hạ tầng kỹ thuật của khu công nghiệp đã được nâng cao nhưng chưa đủ các điều kiện cần thiết, hiện đại để cạnh tranh với các khu công nghiệp trong khu vực và quốc tế.
TS. Ngô Công Thành, Nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho rằng các địa phương và nhà đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp trong nước vẫn ưu tiên tập trung thu hút đầu tư lấp đầy khu công nghiệp, chưa thực sự chú trọng tới cơ cấu ngành nghề, công nghệ, yếu tố môi trường và xã hội của dự án đầu tư, nên hiệu quả đầu tư phát triển các khu công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Chủ đầu tư các dự án kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp Việt Nam do năng lực tài chính hạn chế, có tâm lý chờ đợi tìm được nhà đầu tư thứ cấp rồi mới đầu tư hạ tầng dùng chung trong khu công nghiệp, trong khi nhà đầu tư nước ngoài lại muốn có mặt bằng, hạ tầng kỹ thuật ngay thì mới quyết định đầu tư.
"Sự giằng co, chờ đợi này đã khiến nhiều khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy thấp", ông Thành nói.
Bên cạnh đó, công tác quy hoạch phát triển khu công nghiệp thiếu tầm nhìn tổng thể, dài hạn trong mối tương quan với các ngành, lĩnh vực khác. Khu công nghiệp được quy hoạch khá dàn trải, chủ yếu dựa trên đề nghị của địa phương, chưa gắn với quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước, chưa bám sát yêu cầu thực tiễn, định hướng và khả năng thu hút đầu tư, lợi thế cạnh tranh của địa phương và hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Còn khá nhiều khu công nghiệp triển khai chậm, vì nhiều lý do như công tác giải phóng mặt bằng chậm, suất đầu tư cao, chồng chéo về quy hoạch hoặc cơ sở hạ tầng bên ngoài hàng rào khu công nghiệp không đảm bảo.
Hạ tầng kết nối đa phương tiện thiếu đồng bộ, mất cân đối khi vận tải đường bộ chiếm tới 77% tổng lượng hàng hóa vận chuyển của cả nước. Tiêu chuẩn kỹ thuật hạ tầng, nhà xưởng còn thấp. Hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường khu công nghiệp tại một số địa phương chưa đồng bộ.
Bên cạnh đó, nhu cầu cung cấp điện, nước cho sản xuất chưa đáp ứng được đầy đủ và ổn định, hiệu suất sử dụng năng lượng trong nhà máy còn thấp.
Hạ tầng xã hội, bao gồm nhà ở công nhân, các thiết chế văn hóa, thể thao, phúc lợi phục vụ người lao động trong khu công nghiệp còn thiếu và chưa được gắn kết, đồng bộ với phát triển khu công nghiệp. Chất lượng hiệu quả thu hút đầu tư vào khu công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu; liên kết hợp tác trong khu công nghiệp, khu kinh tế, giữa các khu với nhau và giữa khu công nghiệp, khu kinh tế với khu vực bên ngoài còn hạn chế.
Tính liên kết, hợp tác trong sản xuất còn thấp, chưa hình thành được các chuỗi sản xuất liên hoàn và các cụm liên kết ngành cũng là nguyên nhân khiến nhiều khu công nghiệp có tỷ lệ lấp đầy thấp.
"Thực tế vẫn tồn tại sự cạnh tranh không lành mạnh về thu hút đầu tư giữa các khu công nghiệp và giữa các địa phương làm giảm hiệu quả và chất lượng dự án đầu tư vào khu công nghiệp", ông Thành thẳng thắn chỉ ra.
Theo ông, còn có tình trạng vận hành các công trình bảo vệ môi trường chưa nghiêm túc, chưa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về môi trường. Một số địa phương chưa quy hoạch địa điểm lưu giữ, xử lý chất thải nguy hại, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Tỷ lệ các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung mới đạt 91%. Đây cũng là những vấn đề còn tồn tại đối với hệ thống khu công nghiệp của Việt Nam.
Cần 670-720 tỷ USD để phát triển hạ tầng và lấp đầy KCN
Theo quy hoạch sử dụng đất quốc gia đã được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2021, đến năm 2030 diện tích đất phát triển các khu công nghiệp sẽ đạt khoảng 210.930 ha. Như vậy, từ nay đến năm 2030 sẽ có thêm khoảng 120.000 ha khu công nghiệp, trong đó diện tích đất công nghiệp cho thuê khoảng 80.000 - 85.000 ha.
Hiện đơn giá đền bù đất, giải phóng mặt bằng và định mức xây dựng hạ tầng khu công nghiệp đã được điều chỉnh tăng so với giai đoạn trước. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Đầu tư quốc tế (ISC), ước tính chi phí đầu tư phát triển một ha đất khu công nghiệp bình quân hiện nay khoảng 600.000 USD/ha. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng các khu công nghiệp đã được quy hoạch đến năm 2030, đang và sẽ triển khai xây dựng vào khoảng 72 tỷ USD.
Nhu cầu thu hút đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp rất lớn. Nếu tính suất đầu tư bình quân 6,5 triệu USD/ha đất công nghiệp thì nhu cầu thu hút vốn đầu tư lấp đầy diện tích còn lại của các khu công nghiệp của Việt Nam đã được quy hoạch khoảng 600-650 tỷ USD.
Tổng vốn đầu tư cần thiết để phát triển hạ tầng khu công nghiệp và lấp đầy các khu công nghiệp đã được quy hoạch khoảng 670-720 tỷ USD.
Ngoài ra, còn phải tính đến nhu cầu vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, tái cấu trúc và chuyển đổi các khu công nghiệp hiện hữu thành các khu công nghiệp sinh thái để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh theo cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế.
Để huy động được nguồn vốn to lớn đầu tư vào các khu công nghiệp trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản trong việc khai thông các dòng vốn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận thuận lợi các yếu tố sản xuất và đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư.