|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

PMI Việt Nam lại tụt về dưới 50 điểm, thấp hơn mức trung bình ASEAN

11:18 | 01/04/2024
Chia sẻ
Trong tháng 3, PMI ngành sản xuất Việt Nam giảm về 49,9 điểm sau khi đạt 50,4 điểm trong tháng 2, thấp hơn đáng kể mức trung bình của khu vực ASEAN là 51,5 điểm.

Theo S&P Global, sau khi cải thiện nhẹ trong hai tháng đầu năm, các điều kiện kinh doanh của ngành sản xuất Việt Nam hầu như không thay đổi trong tháng 3.

Cả sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới đều giảm, trong khi tình trạng nhu cầu giảm đã khiến chi phí đầu vào tăng chậm hơn và giá bán hàng giảm.

Một điểm tích cực hơn là niềm tin về triển vọng sản lượng trong một năm tới đạt mức cao của 18 tháng, và các nhà sản xuất tuyển thêm nhân viên với tốc độ nhanh hơn. Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng - Manufacturing Purchasing Managers' Index (PMI) - ngành sản xuất Việt Nam của S&P Global giảm về dưới ngưỡng 50 điểm trong tháng 3, với kết quả 49,9 điểm sau khi đạt 50,4 điểm trong tháng 2.

PMI của Việt Nam thấp hơn mức trung bình của ASEAN

 PMI ngành sản xuất tháng 3 của một số nước trong ASEAN. (Nguồn: S&P Global).

Với mức này, PMI của Việt Nam thấp hơn so với mức trung bình của ASEAN là 51,5 điểm. Đồng thời, PMI ngành sản xuất của Việt Nam cũng thấp hơn ba quốc gia Singapore, Indonesia và Philippines nhưng cao hơn Thái Lan, Malaysia và Myanmar.

Bình luận về xu hướng này, ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, cho rằng tăng trưởng của ngành sản xuất Việt Nam đã chậm lại trong tháng 3 khi nhu cầu giảm đã kìm hãm đà tăng của số lượng đơn đặt hàng mới và sản lượng.

Tình trạng nhu cầu yếu cũng được phản ánh trong các chỉ số giá cả của khảo sát PMI khi tốc độ tăng chi phí đầu vào đã chậm lại và giá bán hàng đã giảm. Tuy nhiên, các công ty đang ngày càng lạc quan rằng ngành sản xuất sẽ tăng trưởng trở lại trong những tháng tới, và niềm tin kinh doanh này đã giúp việc làm tăng vào cuối quý đầu của năm.

Chỉ số PMI dưới 50 điểm trong tháng 3 đã báo hiệu sự kết thúc của thời kỳ cải thiện điều kiện kinh doanh kéo dài hai tháng vào đầu năm 2024 nhưng nó cũng cho thấy các điều kiện hoạt động về tổng thể gần như là không thay đổi.

Đơn hàng mới có xu hướng chậm lại

PMI ngành sản xuất Việt Nam giai đoạn 2011 đến nay. (Nguồn: S&P Global).

Có những dấu hiệu cho thấy nhu cầu yếu trong tháng 3, từ đó số lượng đơn đặt hàng mới giảm mặc dù giá hàng hóa đã được chiết khấu để giúp tăng doanh số. Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới cũng giảm, và mức độ giảm là lớn nhất kể từ tháng 7/2023 trong bối cảnh có áp lực cạnh tranh và những vấn đề về địa chính trị.

Khi số lượng đơn đặt hàng mới giảm, các công ty đã giảm sản lượng vào cuối quý 1 của năm sau khi tăng trong tháng 1 và tháng 2. Tuy nhiên, mức giảm của sản lượng chỉ là nhỏ, và chỉ giới hạn trong các công ty sản xuất hàng hóa trung gian khi các công ty sản xuất hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa đầu tư cơ bản vẫn ghi nhận tăng trưởng.

Mặc dù có sự yếu kém trong tháng 3, các nhà sản xuất đã ngày càng tin tưởng rằng sản lượng sẽ tăng trong thời gian một năm tới. Mức độ lạc quan là mạnh nhất trong thời gian một năm rưỡi.

Các công ty dự kiến tung ra các sản phẩm mới để thúc đẩy sản lượng, đồng thời cũng hy vọng rằng nhu cầu thị trường cải thiện sẽ giúp làm tăng số lượng đơn đặt hàng mới. Các nhà sản xuất cũng nỗ lực tăng tuyển dụng trong tháng 3, từ đó tăng số lượng việc làm tháng thứ hai liên tiếp. Đây cũng là tốc độ tăng việc làm là nhanh nhất kể từ tháng 10/2022. 

Các nhà sản xuất đã giảm giá bán hàng

Các chuyên gia từ S&P Global đánh giá, số lượng nhân viên tăng, cùng với số lượng đơn đặt hàng mới giảm, đã giúp các công ty giải quyết được lượng công việc chưa thực hiện tháng thứ hai liên tiếp. Hơn nữa, tốc độ giảm lượng công việc tồn đọng là nhanh nhất trong năm tháng.

Yêu cầu sản lượng giảm khiến các công ty giảm hoạt động mua hàng trong tháng 3, và đây là lần giảm hoạt động mua hàng thứ năm liên tiếp. Từ đó, tồn kho hàng hóa đầu vào đã giảm mạnh. Tồn kho hàng thành phẩm cũng giảm, và mức giảm là lớn nhất trong thời gian 33 tháng.

Sản lượng giảm và sản phẩm được chuyển cho khách hàng là những nguyên nhân dẫn đến giảm hàng tồn kho sau sản xuất. Trong một số trường hợp, hàng hóa dành cho xuất khẩu đã được chuyển đi.

Nhu cầu hàng hóa đầu vào giảm đã góp phần làm chậm tốc độ tăng chi phí đầu vào và mức tăng chi phí lần này là nhẹ nhất kể từ tháng 8 năm ngoái và là yếu hơn mức trung bình của lịch sử chỉ số. Ở những nơi giá đầu vào tăng, các thành viên nhóm khảo sát cho rằng nguyên nhân là do giá cả nguyên vật liệu và dầu tăng.

Các nhà sản xuất đã giảm giá bán hàng lần thứ hai trong ba tháng qua. Mức giảm nhẹ trong tháng 3 sau khi tăng nhẹ trong tháng 2 phản ánh sự kết hợp của áp lực cạnh tranh, tình hình nhu cầu yếu và mức tăng chi phí chậm hơn.

Cuối cùng, thời gian giao hàng của nhà cung cấp hầu như không thay đổi vào cuối quý đầu năm. Những chậm trễ trong khâu chuyển hàng và những xung đột trên thế giới hiện nay đã khiến việc nhận hàng bị chậm trong một số trường hợp, nhưng yếu tố này hầu như đã được triệt tiêu nhờ việc người bán hàng có đủ hàng hóa để đáp ứng các đơn hàng.

Hạ An